Những điều cần biết về Histamin

Cần biết - 11/24/2024

Những người hay bị dị ứng thường nghe nhiều đến cụm từ Histamin. Vậy nó là chất gì và có vai trò như thế nào trong cơ thể?

Histamin (hay betaimidazol etylamin) là một amin dị vòng, dẫn chất do khử carboxyl của histidin. Trong cơ thể, histamin sẵn có trong các mô như: da, phổi, niêm mạc miệng, dạ dày. Một số vi khuẩn ruột (như trực khuẩn lỵ, phó thương hàn…) có thể chiếm CO2 ở histidin và tạo ra histamin.

Histamin tham gia trong cơ chế sinh bệnh của sốc phản vệ và những biểu hiện dị ứng (tiêm dưới da, histamin gây phản ứng thể hiện bằng vết đỏ tại chỗ hay phản ứng phù nề lan tỏa; tiêm vào mạch máu, histamin làm hạ huyết áp do làm giãn mao mạch, cô đặc máu do thoát huyết tương qua các mao mạch bị giãn, co thắt toàn thể đối với cơ trơn, tử cung, khí quản và ruột; histamin còn kích thích tiết dịch vị, dịch tuỵ).

Ở trạng thái bình thường, tế bào chứa sẵn histamin, nhưng không có hoạt tính vì ở dạng phức hợp protein. Khi cơ thể bị mẫn cảm, kháng nguyên ức chế yếu tố kháng protease; protease không bị kiềm chế nữa, tác động lên phức hợp protein và giải phóng histamin.

Những điều cần biết về Histamin

Histamin chính là 'thủ phạm' gây ra các triệu chứng dị ứng (Ảnh: Internet)

Tác dụng ngoại biên của histamin được điều hoà của các thụ thể H1 bao gồm: cơ trơn, giãn nở và tăng độ thấm của mao mạch. Tác dụng của histamin trên cơ trơn thuộc mạch được điều hoà qua cả thụ thể H2 và H1 bao gồm: tác dụng làm tăng hoạt động của tim và đặc biệt là tác dụng kích thích histamin trong tiết dịch vị.

Còn thụ thể H3 cũng có thể xác định trong một số hệ thống bao gồm hệ thần kinh trung ương và dây thần kinh ngoại vi. Nguời ta cho rằng, các thụ thể H3 liên quan tới sự tự điều chỉnh giảm bớt histamin và các chất dẫn truyền thần kinh từ các nơron.

Cụm từ kháng histamin thường dành cho chất đối kháng H1. Các chất đối kháng H2 điển hình là cimetindin, famotidin, nazitidin, ranitidin.

Hiện nay, các chất đối kháng H3 còn đang được nghiên cứu để sử dụng trong lâm sàng (các chất được nghiên cứu là thioperamind và clobenpropit dùng cho hệ thần kinh trung ương, đường hô hấp và các rối loạn dạ dày-ruột).

Các thuốc kháng histamin cũ thường kết hợp với tác dụng giảm dịu và tác dụng kháng muscarin.  Chúng thường được gọi là thuốc kháng histamin giảm dịu, điển hình là promethazin và các kháng histamin mới, gần như không làm giảm dịu, bao gồm các thuốc acrivastin, astemizol, cetirizin, loratadin và terfenadin.  

>> Xem thêm: Hỏi – đáp về bệnh dị ứng chung

Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!