Một số thuốc đang được áp dụng là:
Acyclovir: Chỉ định tuyệt đối trong viêm não vi-rút do Herpes simplex, ngoài ra còn có thể dùng điều trị: viêm não vi-rút nặng do epstein-barr và varicella-zoster. Acyclovir có tác dụng ức chế DNA polymerase của vi-rút.
Thuốc dùng trong 2 tuần, pha trong dịch truyền tĩnh mạch chậm. Acyclovir có độ pH kiềm nên khi truyền phải theo dõi chặt chẽ, không để thuốc thoát ra ngoài (do vỡ tĩnh mạch hoặc kim truyền chệch ra ngoài...). Khi thuốc chệch ra ngoài sẽ gây viêm tại chỗ. Không được tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.
Tác dụng phụ của acyclovir: Khi tiêm bắp hoặc dưới da gây viêm tại chỗ, gây tăng ure và creatinin máu, giảm tiểu cầu, rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đi ngoài lỏng), nhiễm độc thần kinh (ngủ lịm, mất cảm giác đau, rối loạn định hướng, lú lẫn, kích thích vật vã, ảo giác, run cơ và co giật).
Đã có hiện tượng vi-rút kháng với các thuốc chống vi-rút (Ảnh minh họa: Internet)
Hiện nay đã có biểu hiện vi-rút kháng acyclovir do vi-rút thay đổi enzym Thymidin-kinase và DNA polymerase, nhất là ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
Ganciclovir và foscarnet: Là những thuốc được chỉ định điều trị viêm não vi-rút do Cytomegalovirus. Ganciclovir và foscarnet có tác dụng ức chế cạnh tranh với DNA polymerase của vi-rút.
Ganciclovir: Pha trong dịch truyền tĩnh mạch chậm (liều tấn công). Sau đó chuyển liều duy trì. Khi có suy thận phải giảm liều, khi có giảm bạch cầu hạt và tiểu cầu thì phải ngừng thuốc.
Foscarnet (foscavir): Truyền tĩnh mạch chậm 14 - 21 ngày, sau đó giảm xuống liều duy trì. Foscarnet có thể gây tổn thương thận, gây giảm canxi, magie, kali và có thể rối loạn nhịp tim, co giật.
Điều trị phục hồi chức năng vận động và ngôn ngữ ở giai đoạn di chứng đóng vai trò rất quan trọng. Các biện pháp vật lý trị liệu, ngôn ngữ trị liệu kết hợp với y học cổ truyền có thể giúp hồi phục tới 80% các di chứng sau viêm não vi-rút.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!