Thuốc kháng virut trị bệnh đường hô hấp: Cách dùng đúng và hiệu quả

Cần biết - 11/24/2024

Virut là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, tuy nhiên các thuốc kháng virut lại ít khi được kê đơn trong điều trị. Vậy các thuốc kháng virut là gì và được dùng trong trường hợp nào?

Nhiễm trùng đường hô hấp do virut

Virut là sinh vật nhỏ hơn rất nhiều so với vi khuẩn, chúng không có cấu tạo tế bào và phải sống ký sinh, “ăn nhờ ở đậu” vào tế bào của vật chủ để sống. Có nhiều loại virut gây ra các nhiễm trùng đường hô hấp, trong đó thường gặp nhất là cảm lạnh do rhinovirus gây ra. Các virut khác gây ra cảm lạnh có thể bao gồm coronavirus, adenovirus, virus á cúm... Virut còn có thể gây ra viêm họng, viêm amidan, thậm chí viêm phế quản và viêm phổi.

Hầu hết các bệnh do virut gây ra đều có thể tự khỏi và không để lại biến chứng. Tuy nhiên, vẫn có các loại virus gây ra các bệnh nguy hiểm như bệnh cúm do các loại virut cúm A/H3N2, cúm A/H1N1, cúm A/H5N1, cúm B, cúm C và virut hợp bào hô hấp RSV gây viêm phổi, viêm tiểu phế quản.

Thuốc kháng virut được dùng khi nào?

Thuốc kháng virut thường không được dùng cho người bình thường khỏe mạnh và trong các bệnh virut thông thường vì những trường hợp này có thể tự khỏi mà không cần thuốc điều trị đặc hiệu.

Điều trị đặc hiệu bằng thuốc kháng virut thường được dùng cho các trường hợp nhiễm virut nặng, kéo dài, bệnh có biến chứng hoặc các đối tượng có nguy cơ bị biến chứng nghiêm trọng bao gồm trẻ sơ sinh, trẻ sinh non, người cao tuổi, phụ nữ có thai, người suy giảm miễn dịch, người có các bệnh lý nền như tim mạch, đái tháo đường, suy thận...

Thuốc kháng virut trị bệnh đường hô hấp: Cách dùng đúng và hiệu quả

Khi bị bệnh đường hô hấp không nên tự ý dùng thuốc kháng virut.

Các thuốc kháng virut

Quá trình xâm nhiễm và nhân lên của virut trong tế bào gồm các giai đoạn: Gắn và xâm nhập tế bào; tổng hợp protein, DNA hoặc RNA mà nó cần bên trong tế bào vật chủ từ đó tiến hành sao chép và nhân lên; cuối cùng virut trưởng thành được phóng thích và xâm nhiễm các tế bào mới.

Thuốc kháng virut trong điều trị bệnh đường hô hấp bao gồm amantadine, rimantadine, oseltamivir (tamiflu), zanamivir (relenza) và ribavirin (vixzol). Các thuốc này không có tác dụng tiêu diệt virut mà ngăn chặn sự nhân lên của virut theo cơ chế ngăn chặn sự gắn của virut vào màng tế bào vật chủ và đi vào trong tế bào vật chủ, ức chế sự sao chép hoặc giải mã các ARN hoặc ảnh hưởng đến chu trình phát triển của virut.

Amantadine và rimantadine: Hai thuốc này là các adamantine, cả hai loại thuốc này chỉ có hiệu quả trong điều trị cúm A mà không có tác dụng trên virut cúm B cũng như cúm có biến chứng. Thuốc tác động ở giai đoạn ức chế sự hòa nhập virut vào bên trong tế bào vật chủ. Rimantadine có khả năng xâm nhập dịch đường hô hấp ưu việt hơn amantadine và ít tác dụng phụ hơn, đặc biệt trên thần kinh trung ương. Tác dụng phụ trên thần kinh trung ương của amantadine bao gồm lo âu, mất ngủ, bồn chồn, chóng mặt. Các tác dụng phụ này nặng hơn ở người cao tuổi và bệnh nhân suy thận. Hiện nay, do tình trạng virut cúm A đề kháng thuốc cao, hai thuốc này không được khuyến khích trong điều trị và dự phòng cúm trừ các trường hợp đặc biệt (cúm A/H1N1 đã đề kháng oseltamivir ở bệnh nhân chống chỉ định zanamivir).

Oseltamivir và zanamivir: Hai thuốc này là các chất ức chế neuramiridase, tác động theo cơ chế ngăn chặn không cho virut cúm sao chép trưởng thành và phóng thích ra khỏi tế bào. Các thuốc này có tác dụng điều trị trong cả cúm A và cúm B. Thuốc có tác dụng điều trị và dự phòng cúm ở những người đã tiếp xúc với người bệnh mà chưa có triệu chứng. Thuốc có thể giúp rút ngắn thời gian mắc cúm khoảng 1 ngày, giảm tỉ lệ mắc cúm trong điều trị dự phòng cúm mùa. Tuy nhiên, tác dụng của thuốc chỉ được phát huy khi sử dụng sớm, trong vòng 48 giờ kể từ khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên. Nếu sử dụng muộn, thuốc không những không có hiệu quả điều trị mà còn gia tăng sự kháng thuốc. Thuốc có ít tác dụng phụ hơn và ít dẫn đến kháng thuốc hơn amantadine và rimantadine. Zanamivir chống chỉ định đối với bệnh nhân mắc hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc các bệnh phổi gây co thắt khác.

Ribavirin: Thuốc ngăn cản virut tổng hợp ARN, từ đó ức chế sự sao chép của virut bên trong tế bào. Thuốc được dùng trong điều trị nhiễm virut hợp bào hô hấp ở đường hô hấp dưới, bao gồm viêm tiểu phế quản và viêm phổi, ở trẻ nhỏ có nhiều nguy cơ và phải nằm viện. Thuốc cũng có thể dùng trong điều trị cúm A hoặc cúm B, tuy nhiên cần sử dụng sớm trong vòng 24 giờ kể từ khi có triệu chứng.

Ngoài các thuốc kể trên, một số chế phẩm sinh học như gamma globulin và interferon cũng có tác dụng kháng virut. Gamma globulin ngăn virut xâm nhập tế bào vì có chứa kháng thể chống lại kháng nguyên bề mặt nằm trên lớp vỏ của virut. Còn interferon kháng virut bằng cách ngăn cản virut tổng hợp protein, RNA hoặc DNA của nó trong tế bào.

Lưu ý trong điều trị

Hầu hết bệnh nhân cúm chỉ cần điều trị triệu chứng. Mặc dù các thuốc kháng virut trên có thể dùng trong điều trị dự phòng cúm, tuy nhiên chỉ dùng cho các đối tượng nguy cơ cao đã có sự tiếp xúc với bệnh nhân cúm. Các thuốc kháng virus đặc hiệu không phải ai cũng có thể dùng và không phải ai cũng đáp ứng với thuốc.

Việc dùng thuốc kháng virut cần được bác sĩ kê đơn và hướng dẫn sử dụng, người bệnh không tự ý mua thuốc để điều trị hay dự phòng cúm. Khi có dấu hiệu cúm, đầu tiên cần phải đi khám để được đánh giá đúng tình trạng bệnh và dùng thuốc thích hợp.

Sử dụng tràn lan và bừa bãi các thuốc kháng virut sẽ làm gia tăng tình trạng kháng thuốc, gây khó khăn cho điều trị sau này.

Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!