Nếu nặng thì thanh khiếu bị che phủ, kinh khí bế tắc gây nên hôn mê, nếu tân dịch bị hao tổn quá nhiều thì phát sinh chứng hư thoát.
Huyệt nhân trung có tác dụng khai khiếu (thức tỉnh) và tiết nhiệt.
Chứng trúng thử biểu hiện ở hai mức độ: Nhẹ thì đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, lợm giọng, buồn nôn, khát nước, da nóng, không có mồ hôi, toàn thân mệt mỏi rã rời hoặc có biểu hiện bồn chồn, vật vã; Nặng thì ngoài các triệu chứng trên còn có thêm sắc mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi, chân lạnh, thậm chí xuất hiện hôn mê bất tỉnh, co giật tứ chi.
Về mặt trị liệu, khi gặp tình trạng này phải hết sức nhanh chóng tiến hành các biện pháp sau đây:
- Khẩn trương cởi bỏ và nới rộng quần áo, cho uống một ít nước muối nhạt hoặc nước chín mát, dùng khăn thấm ướt nước lạnh hoặc rượu trắng lau các hốc tự nhiên như hõm nách, bẹn...
- Nếu nặng, bất tỉnh nhân sự thì lập tức dùng ngón tay cái lần lượt bấm mạnh huyệt nhân trung và thập tuyên. Vị trí huyệt nhân trung: ở điểm nối 1/3 trên với 2/3 dưới của rãnh nhân trung, giữa đáy rãnh. Vị trí huyệt thập tuyên: ở đỉnh cao nhất giữa 10 đầu ngón tay. Bấm các huyệt này có tác dụng khai khiếu (làm thức tỉnh) và tiết nhiệt (thải nhiệt, giải nhiệt). Sách Châm cứu khổng huyệt cập kỳ liệu pháp tiện lãm đã viết: “Thập tuyên là kỳ huyệt... dùng kim tam lăng hoặc kim lớn châm ra máu chủ trị tất cả các chứng mất thần cấp tính”.
Day huyệt đại chuỳ là nơi hội tụ dương khí.
- Dùng gốc bàn tay day lòng bàn tay, lòng bàn chân và chỗ hõm giữa thắt lưng của người bệnh (có thể dùng một chút rượu trắng để xoa) sao cho tại chỗ nóng lên là được. Trong tư thế bệnh nhân nằm sấp, xác định và day mạnh huyệt đại chùy nằm ở ngay dưới chỗ lồi lớn của ụ xương cổ thứ 7. Sau đó huyệt này có tác dụng thanh nhiệt và thông dương khí. Kinh nghiệm của cổ nhân thường phối hợp kích thích thập tuyên với đại chùy để trị sốt cao và chống say nắng.
- Nếu bệnh nhân đã tỉnh nhưng còn mệt thì dùng tay xoa, day và vê các ngón chân của người bệnh. Điều này rất có lợi vì như vậy tác động đến các huyệt vị như ẩn bạch, chí âm, hành gian, thái xung, đại đôn, lệ đoài, túc khiếu âm. Kế đó, dùng ngón tay cái nhẹ nhàng day huyệt thái dương và dọc theo hai lông mày với một lực vừa phải.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm dân gian, người ta còn có thể chọn dùng một trong các biện pháp kích thích hồi tỉnh như: dùng lá hẹ tươi hoặc nga bất thực thảo tươi hoặc gừng tươi hoặc tỏi tươi, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước để nhỏ vào lỗ mũi; dùng trầm hương và đàn hương đốt khói xông hai lỗ mũi... Khi bệnh nhân tỉnh cần phải nghỉ ngơi, có thể cho uống nước sắc lá sen, lá hoắc hương hoặc lá hương nhu tươi.
Vị trí huyệt
Ẩn bạch: ở mé trong ngón chân cái, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.
Chí âm: ở mé ngoài đầu ngón chân út, cách góc móng khoảng 0,1 tấc về phía sau.
Hành gian: cách mép kẽ ngón chân 1 và 2 một khoảng 0,5 tấc.
Thái xung: ở kẽ ngón chân 1 và 2, cách mép da 2 tấc.
Đại đôn: ở mé ngoài ngón chân cái, tại điểm giữa đường nối góc ngoài móng chân và khớp liên đốt ngón chân cái.
Lệ đoài: ở phía ngoài góc ngoài móng chân ngón thứ 2, cách góc móng chân 0, 1 tấc về phía sau.
Túc khiếu âm: Bên ngoài ngón chân thứ 4, cách góc móng chân chừng 0,1 tấc về phía sau.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!