Theo bác sĩ Hoàng Cương, Trưởng khoa khám bệnh, Bệnh viện Mắt Trung ương, glôcôm là nhóm bệnh lý trong đó thần kinh thị giác bị tổn hại, có thể dẫn tới giảm thị lực hoặc mù lòa. Nếu được phát hiện và điều trị sớm, ta vẫn có thể bảo tồn được thị lực. Dây thần kinh thị giác có khoảng một triệu sợi thần kinh nối từ võng mạc lên não bộ. Võng mạc là lớp trong cùng của nhãn cầu có chức năng cảm thụ ánh sáng. Như vậy chúng ta có thị lực tốt khi có dây thần kinh thị giác khỏe mạnh.
Việt Nam hiện nay có khoảng 25.000 người mù do glôcôm. Glôcôm là nguyên nhân gây mù lòa đứng thứ hai sau bệnh đục thủy tinh thể. Theo các nghiên cứu mang tính dự báo trong khu vực và trên thế giới, số người bệnh glôcôm sẽ tăng đáng kể vào những năm tới. Ước tính có 80 triệu người mắc bệnh glôcôm vào năm 2020.
Nhãn cầu cần một áp lực đủ mạnh (nhãn áp) để giữ hình dạng của nó cũng như duy trì chức năng nhìn. Ở số đông người bị glôcôm, áp lực nội nhãn cao gây tổn hại thần kinh thị giác. Số còn lại áp lực của con mắt có thể bình thường nhưng thần kinh thị giác bị tổn thương do chính bản thân nó hoặc do vấn đề tưới máu, trong đó huyết áp giữ vai trò quan trọng.Ở thể cấp tính, nếu được phát hiện và điều trị sớm, bệnh nhân có thể phục hồi gần nguyên trạng thị lực trước kia. Ngược lại với thể mạn tính, bạn không thể lấy lại được ánh sáng đã mất mà chỉ có thể giảm tổn hại. Nếu điều trị bệnh sớm thì có thể duy trì thị lực trung tâm tốt trong một thời gian dài hoặc suốt đời.
Căn bệnh gây mù lòa thứ 2 sau đục thủy tinh thể là glôcôm (Ảnh minh họa: Internet)
Nhãn áp được quyết định bởi thể tích thủy dịch tiết ra nhờ thể mi (nằm ngay sau mống mắt). Thủy dịch sau đó sẽ luân chuyển qua lỗ con ngươi, thông một ngách hẹp gọi là góc tiền phòng rồi vào tuần hoàn chung nhờ một kênh dẫn lưu. Sự mất cân bằng giữa việc sản xuất và luân chuyển thủy dịch làm nhãn áp (áp lực bên trong nhãn cầu) tăng lên.
Khi nào nên đi khám bệnh
Glôcôm có 4 thể bệnh chính:
- Glôcôm mạn tính: Đây là quá trình mạn tính của dẫn lưu thủy dịch bị cản trở qua nhiều năm tháng, gây tổn hại thị lực và thị trường mạn tính, không đau đớn và không thể hồi phục.
- Glôcôm cấp tính: Phổ biến ở các nước phương Đông, bệnh do tắc nghẽn dẫn lưu thủy dịch cấp tính, gây những cơn đau nhức dữ dội và giảm thị lực trầm trọng.
- Glôcôm thứ phát: Là tình trạng tăng nhãn áp do các bệnh khác tại mắt như viêm màng bồ đào, một số bệnh lý của thể thủy tinh…
- Glôcôm bẩm sinh: Xảy ra với trẻ nhỏ có bất thường ở hệ sản xuất và dẫn lưu thủy dịch, thường đi kèm với một số dị dạng của hệ thống tâm thần kinh và tim mạch.
Tùy vào loại glôcôm mà cách biểu hiện, diễn tiến, phương pháp chẩn đoán và điều trị khác nhau.
Glôcôm mạn tính thường gặp trên người phương Tây, đặc biệt là người di cư da màu, tuổi từ 40 trở lên. Cơ địa viễn thị, đái tháo đường, gia đình có người bị bệnh cũng là yếu tố để căn bệnh này dễ phát triển. Không có triệu chứng nên phát hiện bệnh chủ yếu là nhờ khám sàng lọc. Việc mất dần trường nhìn của mắt (khuyết hay co hẹp thị trường) là dấu hiệu bệnh đã phát tác. Đo nhãn áp có hệ thống, khảo sát kỹ tình trạng của thị thần kinh cũng là những biện pháp giúp chẩn đoán sớm bệnh này.
Glôcôm cấp tính thì ngược lại với thể mạn tính, bệnh nhân đau nhức dữ dội do áp lực nội nhãn bị tăng cao đột ngột. Mắt đỏ nhiều, thị lực giảm mạnh. Một số bệnh nhân nôn mửa và nhìn đèn thấy quầng sắc màu. Ở thể nhẹ, bệnh chỉ thể hiện bằng nhìn đèn có quầng xanh đỏ, hay xảy ra vào buổi tối. Nếu ở giai đoạn này, bạn nên đi khám bác sĩ mắt sớm, làm thêm một số khám nghiệm bổ sung để có chẩn đoán xác định.
Các khám nghiệm sau đây sẽ được bác sĩ thực hiện để chẩn đoán glôcôm:
- Thử thị lực.
- Đo thị trường (trường nhìn của mắt).
- Khám mắt có giãn đồng tử: Nhờ thuốc giãn đồng tử, bác sĩ dùng các dụng cụ quang học có phóng đại để khám thị thần kinh, võng mạc và phát hiện bệnh lý khác nếu có. Phương pháp này có thể khiến bệnh nhân nhìn mờ trong vài giờ.
- Đo áp lực mắt (nhãn áp).
- Đo độ dày của giác mạc.
Hai thể glôcôm còn lại khá hiếm gặp trong cộng đồng, được phát hiện chủ yếu tại bệnh viện chuyên khoa mắt.
Điều trị bệnh glôcôm
Phát hiện sớm, điều trị ngay rất quan trọng để ngăn chặn tiến triển xấu của bệnh. Bệnh glôcôm có thể điều trị bằng thuốc, laser, phẫu thuật kinh điển hoặc cải biên, phối hợp nhiều loại phẫu thuật…
- Điều trị bằng thuốc: Có rất nhiều loại thuốc uống, thuốc nhỏ, đa chất hoặc đơn chất, mục đích nhằm giảm áp lực nhãn cầu xuống mức an toàn. Việc dùng thuốc yêu cầu phải thường xuyên, đều đặn, có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa. Một số thuốc có thể gây vài tác dụng phụ như đau đầu, bạc và rậm lông mi, đỏ mắt, cảm giác bỏng rát… Nếu có khó chịu khi dùng thuốc, bạn báo với bác sĩ hay dược sĩ để đổi thuốc song đừng bao giờ quên là phải dùng thuốc thường xuyên, kiên trì, tránh quên hoặc bỏ điều trị.
- Điều trị bằng laser: Dùng tia laser chiếu từ bên ngoài để tạo hình vùng bè (laser trabeculoplasty) làm tăng khả năng dẫn lưu thủy dịch ra ngoài, giảm áp lực nội nhãn. Đây là can thiệp không đau, chỉ cần bất động đầu và phối hợp tốt. Sau laser bệnh nhân có thể phải dùng thêm một số thuốc giảm đau, chống viêm.
- Các loại phẫu thuật: Mổ có thể được các bác sĩ chỉ định trong quá trình điều trị bệnh với mục đích tạo nên một đường dẫn lưu thủy dịch mới cho mắt. Phẫu thuật phải tiến hành trong phòng mổ, sau mổ phải dùng thuốc kháng sinh và chống viêm trong vài tuần. Khoảng 60-80% bệnh nhân có ngưỡng nhãn áp an toàn nhờ các phương pháp phẫu thuật. Các biến chứng sau phẫu thuật là đục thể thủy tinh sớm, viêm và nhiễm trùng, biến chứng của giác mạc và sẹo bọng, nhãn áp bị hạ quá thấp…
Phương pháp điều trị cho các thể glôcôm hiếm gặp còn lại là tổng hợp của các biện pháp trên nhưng hiệu quả thấp hơn nhiều. Đặc biệt với glôcôm thứ phát phải điều trị tốt bệnh gốc (bệnh gây tăng nhãn áp). Với glôcôm bẩm sinh, hạ nhãn áp không phải là giải pháp chính mà phải giải phẫu bất thường của mắt, chống nhược thị cho trẻ.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!