Ngày 30/1/2020, Tổng Giám đốc WHO tuyên bố dịch COVID-19 (tên gọi cũ là 2019-nCoV) là sự kiện y tế công cộng gây quan ngại toàn cầu (PHEIC). Các ca bệnh COVID-19 xuất hiện ở tất cả năm khu vực của WHO và việc lây truyền từ người sang người xảy ra cả ở trong và ngoài Trung Quốc đại lục.
WHO tiếp tục làm việc với các quốc gia và các chuyên gia để tìm hiểu về loại virus mới này và thông báo các hành động tiếp theo. Trong khi vẫn còn nhiều điều chưa biết về COVID-19, dưới đây là một số thông tin chúng tôi biết cho đến nay, bao gồm những biện pháp bạn có thể thực hiện để bảo vệ bản thân và người thân của mình.
1. Người nhiễm COVID-19 có thể bị bệnh nặng đến mức nào? Triệu chứng là gì?
Dựa trên thông tin chúng tôi hiện có, virus này có thể gây ra các triệu chứng nhẹ giống như cúm nhưng cũng có thể gây bệnh nặng. Bệnh nhân bị nhiễm virus sẽ xuất hiện một loạt triệu chứng. Mặc dù bệnh này có thể gây bệnh nặng ở một số người, nhưng hầu hết chỉ mắc bệnh nhẹ. Vì vậy, những gì chúng ta thấy hiện nay không giống như hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) hoặc hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS).
Trong khi những thông tin về dịch bệnh này đang thay đổi nhanh chóng thì tỷ lệ tử vong hiện nay là khoảng 2%, và tỷ lệ nguy kịch hiện chiếm khoảng 3%. Thống kê các trường hợp tử vong cho thấy, những người lớn tuổi mắc các bệnh lý nền (bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch hoặc bệnh mạn tính khác như ung thư) vốn dĩ có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch của họ, có tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể.
Đồ hoạ Hoàng Việt
2. Tôi được biết virus COVID-19 thuộc họ virus corona. Tôi hoang mang về những điều tôi nghe về những virus này. Chúng từ đâu đến?
Virus corona (CoV) là một họ virus lớn gây ra các bệnh từ cảm lạnh thông thường đến các bệnh cảnh nghiêm trọng hơn như MERS-CoV và SARS-CoV. Virus corona mới COVID-19 là một chủng mới trước đây chưa được xác định ở người.
Một số loại virus corona là có nguồn gốc từ động vật, tức chúng có thể lây truyền giữa động vật và con người. Các nghiên cứu trước đây nghi ngờ rằng SARS-CoV được truyền từ dơi sang cầy hương rồi sang người, và MERS-CoV được truyền từ lạc đà sang người. Một số loại virus corona đã được biết hiện đang có ở động vật nhưng chưa gây bệnh cho người.
3. Virus COVID-19 lây truyền như thế nào?
Dựa trên những thông tin nhận được đến nay và dựa trên kinh nghiệm đối với các virus corona khác (như MERS-CoV và SARS-CoV), nhiều khả năng loại virus mới này lây lan chủ yếu qua tiếp xúc gần giữa người với người, qua đường hô hấp, trong trường hợp này là giọt bắn (ví dụ nó được tạo ra khi người nhiễm bệnh ho hoặc hắt hơi, hoặc trong một số quy trình chăm sóc y tế) và qua tiếp xúc với các bề mặt có chứa virus (ví dụ khi một người bị nhiễm bệnh và một người khác dùng chung cốc/ly). Đây là lý do tại sao chúng tôi khuyên bạn nên duy trì vệ sinh tay và đường hô hấp đúng cách.
Ước tính sơ bộ của chính quyền Trung Quốc cho thấy virus có thể truyền từ một người sang hai hoặc nhiều người khác. Khi các điều tra viên thu thập dữ liệu và khi các biện pháp chống dịch có hiệu lực, con số này sẽ thay đổi.
Xin nhắc lại lần nữa, đây là một loại virus mới và những hiểu biết của chúng tôi về nó đang tiếp tục thay đổi nhanh chóng. Chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích thông tin ở những ca bệnh hiện nay cũng như các ca bệnh mới để hiểu thêm về loại virus mới này.
Đồ hoạ Hoàng Việt
4. COVID-19 khác gì so với cảm cúm hoặc cảm lạnh thông thường?
Những người bị nhiễm virus COVID-19, bị cảm cúm hay cảm lạnh thường đều có những triệu chứng hô hấp như sốt, ho và sổ mũi. Mặc dù có nhiều triệu chứng giống nhau nhưng chúng lại do các loại vi rút khác nhau gây ra. Chính do sự giống nhau này nên rất khó để có thể chẩn đoán bệnh nếu chỉ dựa vào các triệu chứng. Vì vậy, để xác định các ca nhiễm virus COVID-19 cần đến các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm.
WHO luôn khuyến cáo những người bị ho dai dẳng, sốt và cảm thấy khó thở nên đi khám sớm. Bạn cũng nên kể cho nhân viên y tế biết nếu bạn có đi tới Hồ Bắc trong vòng 14 ngày trước khi các triệu chứng xuất hiện, hoặc nếu bạn đã có tiếp xúc gần với một người bị ốm và có những triệu chứng hô hấp.
5. Báo cáo trên thông tin đại chúng cho rằng, virus có thể lây truyền trước khi xuất hiện triệu chứng ở người bệnh, điều đó có đúng không?
Việc xác định thời gian người bị nhiễm vi rút truyền bệnh cho những người khác là hết sức quan trọng đối với những nỗ lực kiểm soát dịch bệnh. Bệnh án chi tiết của những người bị nhiễm bệnh có chứa những thông tin cần thiết giúp xác định thời gian lây nhiễm của loại virus mới này. Những báo cáo gần đây cho thấy những người bị nhiễm COVID-19 có thể lây bệnh sang cho những người khác ngay cả khi chưa có những triệu chứng rõ ràng. Mặc dù vậy, những dữ liệu hiện có chỉ ra rằng những người có triệu chứng mới là nguồn lây bệnh chính.
Đồ hoạ Hoàng Việt
6. Tôi nghe nói rằng virus COVID-19 có thể lây qua khí dung (aerosol), điều này có đúng không?
Chúng tôi hiểu rằng một số người đang đánh đồng khí dung (aerosol) tức là lây truyền qua không khí. Các giọt bắn, tiếp xúc trực tiếp và truyền qua không khí là các cách truyền bệnh truyền nhiễm từ người sang người. Tuy nhiên, các giọt bắn có kích thước quá lớn và nặng nên không thể bay lơ lửng trong không khí trong thời gian dài, do đó hầu hết chúng bám vào các vật tiếp xúc trong khoảng cách gần.
Hiện tại, bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy virus COVID-19 lây lan qua tiếp xúc và giọt bắn. Chính quyền Trung Quốc đã làm rõ rằng không có bằng chứng cho thấy khí dung (aerosol) là đường truyền chính cho virus COVID-19. Một lần nữa, đây là virus mới và chúng tôi đang tiếp tục theo dõi các đường lây truyền có thể.
7. Tôi có thể bị nhiễm virus COVID-19 từ vật nuôi trong nhà không?
Không. Cho tới nay chưa có bằng chứng về việc vật nuôi trong nhà như chó hay mèo bị nhiễm và làm lây lan virus COVID-19.
8. Nhận bưu kiện từ Trung Quốc hay từ những nơi đã phát hiện virus có an toàn không?
Những phân tích trước đây về các loại virus corona khác cho thấy chúng không tồn tại quá lâu trên một bề mặt. Vì thế, rất khó để bị nhiễm COVID-19 nếu bạn chỉ chạm vào mặt ngoài của một bưu kiện được gửi từ Trung Quốc hay một quốc gia khác. Virus thường không thể tồn tại lâu trên các bề mặt xốp như giấy hoặc bìa cứng.
9. Với thông tin hạn chế mà chúng ta biết về loại virus này, ít nhất cũng có cách nào để giảm nguy cơ lây nhiễm chứ?
Mọi người có thể tự bảo vệ mình thông qua các biện pháp dưới đây:
- Nếu bạn sống ở khu vực có dịch ở Trung Quốc hay trở về từ vùng dịch, bạn hãy lưu ý những thông tin mới nhất về tình hình dịch bệnh và giữ gìn sức khỏe bằng những cách sau:
+ Duy trì khoảng cách giao tiếp từ 1 - 2 mét giữa bạn và người khác, đặc biệt là những người đang ho, hắt hơi và bị sốt.
+ Tránh sờ vào mắt, mũi và miệng.
+ Rửa tay thường xuyên bằng dung dịch rửa tay có cồn hoặc với xà phòng và nước.
- Nếu bạn bị sốt, ho và khó thở, hãy đi khám sớm và kể cho nhân viên y tế biết chi tiết trước đó bạn đã đi những đâu.
- Nếu bạn không sống hoặc không đến các vùng dịch bệnh ở Trung Quốc và không tiếp xúc với những người bị ảnh hưởng, hãy lưu ý thông tin mới nhất và chỉ cần và giữ gìn sức khỏe bằng những cách sau:
- Bảo đảm chế độ ăn uống cân bằng, ngủ đủ giấc và thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh cúm thông thường.
Đồ họa Hoàng Việt
10. Tôi có nên đeo khẩu trang không?
Đeo khẩu trang y tế có thể hạn chế sự lây lan của một số bệnh đường hô hấp. Tuy nhiên, chỉ sử dụng khẩu trang thì không ngăn chặn được việc lây nhiễm, mà phải kết hợp với các biện pháp phòng ngừa khác như vệ sinh tay và đường hô hấp và tránh tiếp xúc gần – giữ khoảng cách ít nhất 1,5 mét giữa bạn với những người khác.
WHO khuyến cáo mọi người sử dụng khẩu trang y tế một cách hợp lý, để tránh lãng phí những tài nguyên quý giá và tránh sử dụng khẩu trang không đúng cách. Điều này có nghĩa là chỉ sử dụng khẩu trang nếu bạn có các triệu chứng về hô hấp (ho hoặc hắt hơi), nghi ngờ nhiễm COVID-19 với các triệu chứng nhẹ hoặc đang chăm sóc cho người bị nghi ngờ nhiễm COVID-19.
Một ca nghi ngờ nhiễm COVID-19 là trường hợp người bị nghi nhiễm có lịch sử đi lại khu vực báo cáo có dịch bệnh COVID-19 ở Trung Quốc, hoặc tiếp xúc gần với một người đến từ Trung Quốc và có các triệu chứng hô hấp.
Đồ hoạ Hoàng Việt
11. Nếu tôi phải đeo khẩu trang thì tôi nên đeo khẩu trang vào thế nào, sử dụng ra sao, dùng xong thì tháo ra và bỏ đi như thế nào?
- Trước khi đeo khẩu trang, hãy rửa sạch tay với dung dịch rửa tay có cồn hoặc bằng xà phòng và nước sạch.
- Khẩu trang phải che khít miệng và mũi. Đảm bảo không có kẽ hở giữa mặt của bạn và khẩu trang.
- Tránh chạm vào khẩu trang khi đang đeo. Nếu chạm vào khẩu trang, hãy rửa sạch tay với dung dịch rửa tay có cồn hoặc bằng xà phòng và nước sạch.
- Thay khẩu trang mới ngay khi khẩu trang đang dùng bị ẩm và không sử dụng lại khẩu trang dùng một lần.
Cách tháo khẩu trang: tháo khẩu trang từ phía sau (không chạm vào mặt trước của khẩu trang); bỏ ngay khẩu trang vào thùng rác có nắp đậy; rửa sạch tay bằng dung dịch rửa tay có cồn hoặc bằng xà phòng và nước sạch.
12. Hiện có loại thuốc đặc hiệu nào để phòng ngừa và điều trị COVID-19 không?
Cho đến nay, chưa có một loại thuốc nào được khuyến nghị sử dụng trong việc phòng ngừa và điều trị virus corona chủng mới. Tuy nhiên, những người nhiễm COVID-19 sẽ được điều trị triệu chứng, và những trường hợp nặng sẽ được điều trị hỗ trợ tối ưu. Một số phương pháp điều trị đặc hiệu hiện đang được nghiên cứu và sẽ được thử nghiệm trên lâm sàng. WHO đang điều phối những nỗ lực phát triển thuốc điều trị đặc hiệu COVID-19 cùng với một số đối tác.
Để tránh bị nhiễm virus corona chủng mới, hãy giữ gìn vệ sinh tay và hô hấp cơ bản, thực hiện an toàn thực phẩm và nếu có thể, tránh tiếp xúc gần với những người có những triệu chứng của các bệnh về hô hấp như ho hay hắt hơi.
Những biện pháp sau đây KHÔNG được khuyến cáo trong việc điều trị COVID-19 bởi chúng không có hiệu quả và có thể gây nguy hiểm:
- Hút thuốc.
- Tự uống thuốc, ví dụ như kháng sinh.
- Đeo nhiều khẩu trang cùng lúc để tối ưu mức bảo vệ.
Trong bất kì trường hợp nào, nếu bạn bị sốt, ho kéo dài và cảm thấy khó thở, hãy đi khám để giảm thiểu nguy cơ bệnh trở nên nặng hơn và kể cho nhân viên y tế biết bạn đã đi những đâu trong thời gian gần đây.
Đồ họa Hoàng Việt
13. Kháng sinh có hiệu quả trong việc phòng ngừa và điều trị COVID-19 không?
Không, kháng sinh không có tác dụng đối với vi rút mà chỉ hiệu quả với các loại nhiễm khuẩn do vi khuẩn gây ra. Virus corona chủng mới là một loại virus và vì thế, không thể dùng kháng sinh để ngăn ngừa và điều trị loại virus này.
14. Về vaccine thì sao?
Hiện không có vaccine phòng bệnh COVID-19, nhưng việc sản xuất vắc-xin đang được tiến hành để các thử nghiệm lâm sàng có thể bắt đầu sau 3-4 tháng. WHO sẽ công bố danh sách ban đầu các loại vaccine hiện đang được nghiên cứu và có thể tham gia các thử nghiệm lâm sàng này.
15. Việt Nam đã sẵn sàng đối phó với loại virus mới này chưa?
Năng lực của Việt Nam trong việc xử trí các vấn đề y tế công cộng khẩn cấp, kể cả các đợt bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi, đã tăng lên đáng kể. Kết quả này có được sau nhiều năm đầu tư tăng cường năng lực cốt lõi - bao gồm giám sát và đánh giá nguy cơ, năng lực phòng thí nghiệm, phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn và quản lý lâm sàng, truyền thông nguy cơ,... - theo như yêu cầu của Điều lệ y tế quốc tế (IHR) (2005).
Chúng tôi gọi đây là năng lực quốc gia trong việc sẵn sàng ứng phó và kiểm soát các vấn đề y tế khẩn cấp, và năng lực này đã được thử thách và kiểm nghiệm qua các sự kiện thực tế ở Việt Nam, và bây giờ là COVID-19.
WHO ghi nhận việc Việt Nam đã xử lý dịch bệnh này rất tốt. Chính phủ đã khởi động hệ thống ứng phó ở giai đoạn đầu của dịch - tăng cường giám sát, đảm bảo phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý ca bệnh tại các cơ sở y tế và tăng cường xét nghiệm bên cạnh thực hiện các hoạt động truyền thông và hợp tác đa ngành.
Đồ họa Hoàng Việt
16. WHO khuyến nghị gì để Việt Nam chuẩn bị tốt hơn nhằm đối phó với dịch bệnh này?
Dự kiến sẽ có thêm các trường hợp nhiễm vi rút corona mới trong những ngày tới. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục cảnh giác và sẵn sàng kiểm soát dịch bệnh. Cần phát hiện sớm, cách ly và xử trí các trường hợp mắc bệnh bằng các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn thích hợp, tăng cường giám sát, chia sẻ thông tin minh bạch và kịp thời với WHO như yêu cầu của Điều lệ y tế quốc tế (2005).
17. WHO có khuyến nghị áp dụng đóng cửa biên giới không?
Dựa trên thông tin hiện có, WHO không khuyến nghị bất kỳ sự hạn chế nào với các hoạt động đi lại hoặc thương mại.
WHO kêu gọi tất cả các quốc gia đưa ra các quyết định hợp lý, dựa trên bằng chứng và nhất quán. Theo yêu cầu của Điều lệ y tế quốc tế (2005), khi PHEIC được ban bố, các quốc gia phải thông báo cho WHO khi thực hiện bất kỳ biện pháp nào về hạn chế đi lại.
18. Còn về việc cho học sinh nghỉ học hoặc hủy bỏ các sự kiện công cộng? WHO có khuyến nghị nào đối với những hoạt động này ở Việt Nam không?
Cơ quan chức năng của các quốc gia đưa ra quyết định về các biện pháp bổ sung, ví dụ cho học sinh nghỉ học hoặc hủy bỏ các sự kiện tập trung đông người căn cứ vào mức độ nguy cơ ở quốc gia đó.
Đồ họa Hoàng Việt
19. WHO đang làm gì?
WHO có một lịch sử lâu năm hỗ trợ các quốc gia trong việc phòng chống và ứng phó với các bệnh truyền nhiễm tại khu vực Tây Thái Bình Dương, bao gồm các dịch bệnh mới và tái xuất hiện như Zika (2017), cúm đại dịch (2009), cúm gia cầm A (H5N1) (2004) và SARS (2003).
WHO sẽ tiếp tục làm việc chặt chẽ với các quốc gia và hỗ trợ những nội dung cần thiết để có thể hiểu rõ hơn về loại virus mới này, cũng như việc giám sát, phát hiện các ca bệnh và giúp ngăn ngừa lây nhiễm.
20. WHO đã triệu tập họp Ủy ban Khẩn cấp để đối phó với virus mới này. Việc này nghĩa là thế nào?
Ủy ban Khẩn cấp tổ chức một cuộc họp với các chuyên gia quốc tế nhằm cung cấp tư vấn chuyên môn cho Tổng Giám đốc của WHO để quyết định một sự kiện y tế công cộng có đủ điều kiện công bố là một 'Sự kiện y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại toàn cầu' (PHEIC) hay không.
Thuật ngữ 'Sự kiện y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại toàn cầu' (PHEIC) được định nghĩa trong Điều lệ Y tế Quốc tế (IHR) (2005) là một sự kiện được xác định khi: Gây ra mối nguy cơ về y tế công cộng cho các quốc gia khác thông qua việc lây lan dịch bệnh quốc tế và cần sự đáp ứng quốc tế có điều phối.
Định nghĩa này phản ánh một tình huống: Nghiêm trọng, bất thường hoặc ngoài dự đoán; mang theo những ảnh hưởng về y tế cộng cộng ra bên ngoài biên giới của quốc gia bị ảnh hưởng; và có thể đòi hỏi các hành động của quốc tế.
Tổng Giám đốc đưa ra quyết định cuối cùng về Sự kiện y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại toàn cầu và các khuyến nghị tạm thời cho sự kiện đó, dựa trên tham vấn của Ủy ban Khẩn cấp, thông tin do các nhà chức trách quốc gia cung cấp, các chuyên gia khoa học và đánh giá nguy cơ đối với sức khỏe con người, nguy cơ lây lan quốc tế của bệnh và nguy cơ ảnh hưởng tới việc đi lại quốc tế.
Vào ngày 30/1/2020, Tổng Giám đốc WHO tuyên bố dịch viêm phổi do COVID-19 (tên gọi tạm thời lúc đó là 2019-nCoV) là 'sự kiện y tế công cộng gây quan ngại toàn cầu' (PHEIC). Việc tuyên bố PHEIC không có nghĩa là đã có những thay đổi đặc biệt về mặt nguy cơ hay mối đe dọa đã trở nên lớn hơn. Thay vào đó, tuyên bố này giúp tăng cường phối hợp, hợp tác và đoàn kết toàn cầu.
WHO muốn nhấn mạnh rằng việc tuyên bố PHEIC không phải do tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc mà do những diễn biến về dịch bệnh tại các quốc gia khác. WHO ghi nhận những biện pháp quyết liệt mà Trung Quốc đã thực hiện nhằm đối phó với dịch viêm phổi do COVID-19 mặc dù những biện pháp này đã có những ảnh hưởng to lớn về kinh tế và xã hội đối với người dân Trung Quốc. Tuyên bố PHEIC phản ánh mối quan ngại lớn nhất của WHO – đó là virus có khả năng lây lan sang những quốc gia có hệ thống y tế kém phát triển hơn và chưa sẵn sàng đối phó với nó.
Đây là lần thứ 6 PHEIC được tuyên bố. Từ trước tới nay đã có 5 lần PHEIC được tuyên bố kể từ năm 2006 khi Điều lệ Y tế Quốc tế - IHR (2005) có hiệu lực, bao gồm: đại dịch cúm H1N1 (2009), Bại liệt (2014), Ebola tại Tây Phi (2014), Zika (2016) và Ebola tại Cộng hòa Dân chủ Công gô (2019).
Mai Anh (ghi)
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!