Không rõ có phải do gợi ý từ bút ký Khúc tráng ca mù u của Văn Thành Lê hay không, mà từ năm 2014, thành phố Đà Nẵng đã có chủ trương chọn mù u, một loài cây “không sợ gió bão, chịu mưa dầm nắng hạn, cây thấp mà tàn hẹp, rễ chắc mà khá sâu”, để trồng làm cảnh quan đường phố.
Mù u còn có tên Cồng hay Hồ đồng, tên khoa học Calophyllum inophyllum L., thuộc họ Măng cụt - Clusiaceae.
“Mù u chữa bỏng, sát trùng/ Tiêu sưng, cầm máu, lại dùng giảm đau”. Ảnh: P.C.T
Mù u là cây to, cao tới 20-25m, đường kính trung bình 30-35cm. Cành non nhẵn, tròn. Lá lớn, mọc đối, thon dài, mỏng; gân phụ nhiều, nhỏ, song song và gần như thẳng góc với gân chính, nổi rõ cả hai mặt; cuống lá dày và bẹt.
Cụm hoa chùm ở nách lá hay ở ngọn cành gồm 5-16 hoa, thường là 9. Hoa màu trắng hay vàng cam, có 4 lá đài, 4 cánh hoa, nhiều nhị xếp thành 4-6 bó, bầu một lá noãn với một noãn đính gốc, 1 vòi nhụy. Quả hạch hình cầu hay hình trứng, khi chín màu vàng nhạt, chứa một hạt có vỏ dày và một lá mầm lớn dầy dần. Cây ra hoa tháng 2-6, có quả tháng 10-12.
Mù u thường mọc hoang ở nhiều nơi nước ta, cũng được trồng làm cây bóng mát. Hạt, dầu hạt, nhựa cây, rễ, lá đều có thể dùng làm thuốc. Thu hái quả tốt nhất vào lúc cây 7-10 năm tuổi; quả chín rụng rồi khô vỏ sẽ cho nhiều dầu nhất. Nên thu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Hạt dùng tươi hay ép lấy dầu. Nhựa thu quanh năm, phơi khô, tán bột. Rễ, lá thu hái quanh năm, phơi khô.
Phân tích thành phần hóa học cho thấy nhân hạt chứa 50,2-73% dầu; vỏ hạt chứa leucocyanidin, vỏ cây chứa 11,9% tanin, acid hữu cơ, saponin triterpen, phytosterol, tinh dầu, coumarin. Mủ của quả có một phần không tan trong cồn gồm các glycerid và phần tan trong cồn chứa tinh dầu, nhựa và các lacton phức hợp (dẫn xuất coumarin): calophyllolid, mophyllolid, acid calophyllic. Chất calophyllolid có tính chất chống đông máu như các coumarin khác. Lá chứa saponin và acid hydrocyanic.
Theo Đông y, nhựa Mù u có vị mặn, tính rất lạnh; có tác dụng gây nôn, giải các loại ngộ độc, bụng trướng đầy. Dầu Mù u có tác dụng tiêu sưng, giảm đau, sát trùng, cầm máu. Vỏ se, làm săn da. Lá độc đối với cá.
Người ta dùng nhựa Mù u bôi làm tiêu tan các chỗ sưng tấy, chữa họng sưng không nuốt được, cam răng tẩu mã thối loét và các mụn tràng nhạc không tiêu, các mụn nhọt, vết loét nhiễm trùng, tai có mủ. Dầu Mù u dùng trị ghẻ, nấm tóc và các bệnh về da nói chung, chữa viêm dây thần kinh trong bệnh cùi, các vết thương. Cũng dùng bôi trị thấp khớp.
Mủ dùng ngoài để làm lành sẹo, nhất là để trị bỏng. Vỏ cây dùng trị bệnh đau dạ dày và xuất huyết bên trong. Gỗ cây dùng thay nhựa. Rễ dùng chữa viêm chân răng. Dầu thường dùng bôi. Nhựa và vỏ cây dùng dưới dạng bột. Người ta đã chế các sản phẩm của Mù u thành dạng xà phòng, thuốc mỡ, cao dầu, thuốc viên.
Theo Trung hoa bản thảo, Mù u có tên Hồng hậu xác (红厚壳), lá và rễ làm thuốc, có vị hơi đắng, chát, tính bình; quy kinh can và phế, công năng khử ứ, giảm đau; chủ trị phong thấp đau nhức, té ngã chấn thương, đau bụng kinh, ngoại thương xuất huyết. Liều dùng 3-10g sắc uống, lá tươi giã đắp bên ngoài tùy lượng.
Bài thuốc:
- Ðau dạ dày: Bột vỏ Mù u 20g, bột Cam thảo nam 14g, bột Quế 1g, tá dược vừa đủ làm thành 100 viên, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 viên.
- Mụn nhọt, lở, ghẻ: Hạt Mù u giã nhỏ, thêm vôi, đun sôi để nguội làm thuốc bôi. Hoặc dầu Mù u trộn với vôi, chưng nóng lên để bôi.
- Giải độc: Hòa nhựa vào nước, uống nhiều lần thì mửa ra. Nếu không có nhựa thì dùng 120g gỗ mù u chẻ nhỏ sắc uống nhiều lần.
- Cam tẩu mã, viêm răng thối loét: Nhựa Mù u trộn với bột Hoàng đơn bôi liên tục vào chân răng.
- Răng chảy máu hay lợi răng tụt xuống, chân răng lộ ra: Rễ Mù u và rễ Câu kỷ (Rau khởi) liều lượng bằng nhau, sắc nước ngậm nhiều lần.
- Phong thấp đau xương và thận hư đau lưng hoặc bị thương đau nhức: Rễ Mù u 40g sắc uống.
Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!