Đây là vi-rút thuộc nhóm enteroviruses (vi-rút đường ruột). Tác nhân thường là coxsackievirusus A16, enteroviruses 71 hoặc một loại vi-rút khác trong nhóm enterovirutes. Nhóm vi-rút đường ruột (enterovirut) gồm: polioviruses, coxsackieviruses, echoviruses và các enteroviruses khác.
Coxsackievirusus A16: Vi-rút Coxsackie lần đầu tiên được phân lập trong phân người tại thị trấn Coxsackie, New York, năm 1948 bởi G. Dalldorf. Vi-rút này thuộc họ Picornaviridae chủng Enteroviruses.
Vi-rút Coxsackie thuộc một phân nhóm của Enteroviruses, chỉ có một chuỗi ribonucleic acid (RNA) làm vật liệu di truyền. Enterovirusus cũng được xếp vào nhóm picornaviruses (nghĩa là vi-rút có chuỗi RNA nhỏ)...
Vi -rút Coxsackie phân thành 2 nhóm A và B. Nhóm A: gây hoại tử cơ và tử vong. Vi-rút týp A (chủ yếu serotype A 16) gây herpangina (các mụn nước ở họng, hầu, tay, chân).
Bệnh tay chân miệng thường xảy ra ở trẻ dưới 10 tuổi (Ảnh minh họa: Internet)
Bệnh tay chân miệng là tên thường gọi của bệnh nhiễm vi-rút này. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi, đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi, người lớn vẫn có thể bị. Týp A còn gây viêm kết mạc. Nhóm B: gây tổn thương nội tạng nhưng tình trạng ít nặng hơn. Vi-rút týp B gây tình trạng đau màng phổi, biểu hiện bằng sốt, đau ngực, đau bụng, nhức đầu trong vòng từ 2 - 12 ngày, còn được gọi là bệnh Bornholm.
Vi-rút có tất cả 24 týp huyết thanh (có kháng nguyên khác nhau trên bề mặt vi-rút). Vi-rút Coxsackie nhiễm vào tế bào của ký chủ và làm vỡ tế bào (lysis). Cả 2 týp vi-rút A và B có thể gây viêm màng não, viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim nhưng thường ít gặp.
Enterovirusus 71 (EV71): Nếu là do vi-rút Coxsackie A16 gây ra thì thường bệnh ở dạng nhẹ và tự khỏi không cần điều trị trong khoảng từ 7 - 10 ngày. Hiếm khi có biến chứng viêm màng não vi-rút. Nhưng nếu là do entero vi-rút 71 thì nguy hiểm hơn, bởi bệnh có thể gây viêm màng não, viêm não, liệt... dễ dẫn đến tử vong nếu phát hiện và điều trị muộn.
Bệnh lây từ người sang người thông qua tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết mũi họng, nước bọt, dịch của bọng nước, phân của người bệnh. Tuần lễ đầu tiên sau khi phát bệnh là lúc dễ lây nhiễm nhất.
Bệnh thường xảy ra ở trẻ dưới 10 tuổi song người lớn cũng có thể mắc. Tất cả mọi người đều có nguy cơ nhưng không phải ai bị lây cũng mắc bệnh. Trẻ em, thiếu niên dễ mắc bệnh bởi vì chưa có kháng thể và miễn dịch từ những lần tiếp xúc trước đây. Sau khi nhiễm bệnh sẽ có miễn dịch bảo vệ nhưng bệnh nhân có thể bị mắc lại nếu nhiễm loại vi-rút gây bệnh loại khác.
Đây là một trong những bệnh gây đau miệng. Cần chẩn đoán phân biệt với nhiễm herpes gây viêm miệng và nướu răng. Các bác sĩ lâm sàng có thể phân biệt với các bệnh gây đau miệng khác thông qua tuổi mắc bệnh, dấu hiệu của bệnh, khám thấy ban và đau.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!