Các tật khúc xạ thường gặp ở trẻ là cận thị, viễn thị, loạn thị và lệch khúc xạ... trong đó, tỷ lệ trẻ bị cận thị chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Đây là một nguy cơ rất lớn gây ảnh hưởng đến việc học tập, cũng như các sinh hoạt thông thường hàng ngày của trẻ.
Các tật khúc xạ thường gặp
Cận thị
Hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa xác định được nguyên nhân cụ thể gây nên cận thị, nhưng có nhiều yếu tố liên quan đến cận thị trong đó có việc trẻ xem tivi, chơi trò chơi điện tử, sử dụng internet quá nhiều. Bên cạnh đó là phòng học thiếu ánh sáng, tư thế ngồi học và đọc sách không đúng, bàn ghế không phù hợp, chưa có bảng chống loá, môi trường ô nhiễm, thời gian học và đọc sách không hợp lý, ăn uống không đủ chất và cả do nguyên nhân di truyền…
Các tật khúc xạ ở trẻ cần được phát hiện sớm
Khi bị cận thị, trẻ phải nheo mắt để nhìn, gây mỏi mắt, co quắp mi hay lác mắt, dần dần mất sự phối hợp thị giác hai mắt. Biến chứng của cận thị có thể gây đục dịch kính, thoái hoá võng mạc, bong võng mạc dẫn đến mù loà.
Mắt cận thị là mắt có trục nhãn cầu dài hơn bình thường hoặc công suất khúc xạ quá lớn, khi đó hình ảnh của vật sẽ hội tụ ở phía trước của võng mạc. Người bị cận thị nhìn xa mờ nhưng nhìn gần vẫn rõ nhờ vào chức năng điều tiết của mắt trừ khi cận thị quá nặng. Cận thị có thể đơn độc hoặc kèm theo loạn thị. Cận thị có thể là bẩm sinh (thường là cận thị nặng) hay mắc phải do quá trình phát triển (thường xuất hiện lúc trẻ 7-10 tuổi).
Ở trẻ em đa số chỉ phát hiện khi trẻ bắt đầu đi học, cô giáo thấy đọc sai chữ lên bảng hoặc học sút kém… lúc đó mới đi khám và đeo kính. Vì thế, các bậc cha mẹ khi thấy trẻ có hiện tượng: trẻ ngồi quá gần ti vi; đọc sách, truyện quá gần; Trẻ hay nheo mắt; Nghiêng hoặc quay đầu để nhìn cho rõ; Trẻ nheo mắt khi nhìn xa hoặc nghiêng đầu xem ti vi; Trẻ hay mỏi mắt nhức đầu, chảy nước mắt; Thường không thích các hoạt động liên quan đến nhìn xa; Gia đình có ông bà, bố mẹ, hay anh chị bị cận thị; Trẻ có tiền sử sinh non… cần đưa trẻ tới cơ sở y tế chuyên khoa mắt để được khám, phát hiện và điều trị kịp thời các tật khúc xạ nói chung và cận thị nói riêng tránh các tai biến do các tật khúc xạ gây nên.
Cả hai dạng cận thị (bẩm sinh hay mắc phải) đều có xu hướng tăng nhanh nên cần thiết phải đưa trẻ đi kiểm tra khúc xạ thường xuyên, định kỳ từ 6-12 tháng/lần tuỳ theo sự tiến triển của cận thị để thay đổi số kính đeo thích hợp.
Để điều trị cận thị trẻ em, phương pháp phổ biến, thuận tiện, dễ dàng và rẻ tiền nhất là đeo kính gọng. Ngoài ra có thể dùng kính tiếp xúc. Ở nước ta chỉ dùng Laser Excimer chữa cận thị cho người từ 18 tuổi trở lên.
Viễn thị
Ngược lại với cận thị là viễn thị. Người bị viễn thị nhìn xa rõ hơn nhìn gần, nhưng nếu bị viễn thị nặng thì người bệnh nhìn mờ cả khi nhìn xa và khi nhìn gần. Mắt viễn thị là mắt có trục nhãn cầu ngắn hơn bình thường và khi đó hình ảnh của vật nằm ở phía sau của võng mạc.
Ở trẻ nhỏ trong những năm đầu thường bị viễn thị sinh lý không cần phải đeo kính, do mắt có khả năng điều tiết. Tuy nhiên khi mức độ viễn thị vượt quá khả năng điều tiết của mắt thì có thể gây ra nhìn mờ, lác mắt. Khi bị viễn thị trẻ thường có cảm giác khó chịu, nhức đầu, hay phải nheo mắt để nhìn... Viễn thị thường gây nhược thị và có thể là yếu tố gây ra lác điều tiết nên cần phải được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Điều chỉnh viễn thị bằng đeo kính hội tụ (thường được kí hiệu bằng dấu cộng ở trước số kính đeo) để kéo ảnh của vật về đúng trên võng mạc và khi đó người bệnh mới nhìn rõ.
Loạn thị
Loạn thị là tình trạng hình ảnh tới mắt không hội tụ ở một điểm mà ở nhiều điểm khác nhau trên võng mạc. Mắt loạn thị nhìn vật bị mờ cả xa và gần, và vật bị biến dạng. Trẻ bị loạn thị thường nhìn mờ khi nhìn lên bảng hay đọc nhầm chẳng hạn như chữ H đọc thành chữ N, chữ B đọc thành chữ H, chữ I đọc thành chữ T … Loạn thị có thể là đơn thuần hoặc phối hợp với cận thị (loạn thị cận), viễn thị (loạn thị viễn) hay cả loạn thị cận và viễn (loạn thị hỗn hợp). Điều chỉnh mắt loạn thị bằng cách đeo kính trụ.
Lệch khúc xạ
Lệch khúc xạ là hiện tượng có sự khác nhau về khúc xạ giữa hai mắt có thể là một mắt cận còn mắt kia viễn hoặc cả hai mắt cùng cận hay cùng viễn nhưng khác nhau về mức độ. Đôi khi là một mắt chính thị còn mắt kia là cận thị đơn thuần, viễn thị đơn thuần hay cận thị loạn hoặc là viễn thị loạn. Điều này có thể gây ra nhược thị do thị lực ở mắt có tật khúc xạ lớn hơn phát triển không bình thường. Và, trong điều trị ngoài việc kính đeo ra thì đôi khi bịt mắt là cần thiết để đảm bảo cho cả hai mắt cùng nhìn rõ.
Phòng ngừa thế nào?
Nhìn chung mắt có tật khúc xạ thường là mắt có thị lực kém và ở trẻ em thường biểu hiện bằng nheo mắt, nghiêng đầu vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có thể có nhức đầu, nhức mắt. Trong lớp học trẻ nhìn không rõ trên bảng, hay cúi đầu lại gần sách để nhìn cho rõ, hay chép nhầm bài, đọc nhầm chữ thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến chất lượng học tập… Những trường hợp này cần được phát hiện sớm và đi khám bác sĩ chuyên khoa để được phát hiện tật khúc xạ và có phương hướng điều trị thích hợp.
Đối với trẻ có tật khúc xạ cần phải đeo kính thường xuyên để giúp cho trẻ nhìn rõ và tạo điều kiện cho sự phát triển hoàn thiện chức năng thị giác của mắt. Cũng cần phải nhớ rằng do trẻ còn đang phát triển, khúc xạ ở mắt của trẻ còn thay đổi nên cần phải đưa trẻ đi khám thường xuyên theo định kỳ và thay đổi số kính đeo cho phù hợp với tình trạng khúc xạ của mắt trẻ.
Để phòng ngừa, trẻ không đọc sách, làm việc bằng mắt (đọc sách, học bài) ở khoảng cách gần (khoảng cách thích hợp từ mắt đến sách đọc khoảng 30 - 40cm là tốt nhất). Sau 1 giờ đọc sách hoặc làm việc với máy vi tính cần nghỉ 5-10 phút, xoa nhẹ mi mắt; đảm bảo đủ ánh sáng khi ngồi học (có đèn bàn) và ánh sáng trên lớp học; tư thế ngồi học (ngồi thẳng lưng, ngay ngắn, không cúi sát xuống bàn, bàn học cần vừa với kích thước cơ thể của trẻ); trẻ cũng cần có chế độ giải lao, vui chơi giải trí (ngoài trời) và dinh dưỡng hợp lí để không bị mắc phải cận thị học đường hoặc nếu có bị những tật khúc xạ bẩm sinh thì cũng không bị nặng hơn gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống sau này.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!