Thuốc điều trị đột quỵ não

Cần biết - 11/24/2024

Đối với những người trên 50 tuổi, nên khám bệnh định kỳ phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ của đột quỵ não để có biện pháp phòng bệnh hiệu quả.

Đột quỵ não hoặc cơn tai biến mạch máu do mất đột ngột lưu lượng máu tới não (chảy máu não hoặc tắc mạch não) dẫn đến giảm, mất chức năng hoặc chết các tế bào não, là nguyên nhân gây liệt, rối loạn ngôn ngữ, mất cảm giác, trí nhớ, hôn mê và có khả năng gây tử vong.

Hiện nay, với các phương tiện hồi sức tích cực, các loại thuốc mới được nghiên cứu và đưa vào sử dụng nên việc điều trị bệnh đã mang lại hiệu quả... Mặt khác, nhờ hiểu biết về cơ chế bệnh sinh nên đã có các biện pháp dự phòng yếu tố nguy cơ trong cộng đồng. Và nếu bệnh được điều trị sớm trong các giờ phút đầu, có thể hạn chế tử vong và di chứng.

Sử dụng thuốc Tây y:

Các thuốc chống đông và thuốc chống kết tập tiểu cầu do ức chế sự tổng hợp thromboxan A2 của tiểu cầu (chất làm dính các tiểu cầu với nhau và với thành mạch), đồng thời giúp ổn định màng tế bào làm ADP không giải phóng ra được khỏi màng tế bào để tham gia vào quá trình kết dính tiểu cầu nên đã được dùng phổ biến trong thời kỳ cấp để ngăn chặn huyết khối tiến triển và tái phát. Chúng có lợi ích dự phòng lâu dài cho nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm rung nhĩ, tình trạng tăng đông...

Tuy vậy, các thuốc này không có tác dụng đáng kể làm tiêu cục máu đông và không thể tái lập nhanh tưới máu não trong giai đoạn cấp. Các thuốc chống kết tập tiểu cầu chủ yếu bao gồm:

Aspirin: với các bệnh nhân có tiền sử gia đình có nguy cơ mạch máu cao (tiền sử đột quỵ, nhồi máu cơ tim, bệnh động mạch ngoại vi, đái tháo đường), dùng aspirin giảm được nguy cơ xảy ra đột quỵ não và tim xấp xỉ 19%. Với các bệnh nhân có cơn thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ thiếu máu não trước đó, dùng aspirin giảm được xấp xỉ 19-23% đột quỵ tái phát trong 3 năm (placebo là 13%). Tác dụng không mong muốn chủ yếu của aspirin là gây biến chứng chảy máu đường tiêu hóa (0,5%/năm).

Thuốc điều trị đột quỵ não

Dypiridamol:giảm nguy cơ đột quỵ ở các bệnh nhân có tiền sử gia đình có nguy cơ mạch máu khoảng 10% và ở các bệnh nhân có cơn thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ trước đó xấp xỉ 13%. Dypiridamol không gây biến chứng chảy máu tiêu hóa nhưng gây đau đầu (xấp xỉ 8%), trong một số trường hợp, người bệnh không tiếp tục điều trị thuốc này được.

Aggrenox:Là thuốc kết hợp aspirin + dypiridamol làm giảm tác dụng không mong muốn của aspirin và tăng hiệu quả điều trị dự phòng gấp 2 lần dùng aspirin đơn độc (xấp xỉ 37%). Nghiên cứu dự phòng đột quỵ châu Âu (ESPS-2) cho rằng phác đồ kết hợp giữa aspirin và dypiridamol là sự lựa chọn dược lý hứa hẹn để giảm nguy cơ tái phát đột quỵ.

Clopidogrel: Clopidogrel làm giảm có ý nghĩa nguy cơ tái phát đột quỵ ở các bệnh nhân có tiền sử thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ thiếu máu não cục bộ trước đây đạt xấp xỉ 30% và ít gây biến chứng chảy máu tiêu hóa so với aspirin.

Các biện pháp điều trị củng cố và dự phòng tái phát sau đột quỵ:

Để giảm nguy cơ tái phát của các trường hợp thiếu máu não thoảng qua và đột quỵ thiếu máu não cục bộ do huyết khối vữa xơ động mạch, các biện pháp cụ thể bao gồm:

- Thay đổi phong cách sống cố định, nhàm chán, ít vận động và các thói quen có hại (không hút thuốc lá, chống lạm dụng rượu, hạn chế các stress), tập luyện thân thể thường xuyên;

- Duy trì huyết áp tối đa và tối thiểu (<>

- Điều chỉnh các yếu tố nguy cơ (đái tháo đường, tăng huyết áp, vữa xơ động mạch...);

- Dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu (aspirine, dipiridamol, clopidogrel...) theo chỉ dẫn.

Đối với những người trên 50 tuổi, nên khám bệnh định kỳ phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ của đột quỵ não để có biện pháp phòng bệnh hiệu quả theo đúng phương châm ‘phòng bệnh hơn chữa bệnh’. Một khi đột quỵ đã xảy ra, bệnh nhân cần được đến bệnh viện, vào các trung tâm đột quỵ để điều trị kịp thời nhằm giảm tỷ lệ tử vong và tàn phế.

Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!