Mẫu đơn còn có tên là hoa vương, thiên hương quốc sắc, phú quý hoa. Theo y học cổ truyền bộ phận dùng làm thuốc của mẫu đơn là vỏ rễ phơi hay sấy khô, gọi là mẫu đơn bì, đơn bì.
Mô tả
Đơn bì hoặc mẫu đơn bì là vỏ rễ của cây Paeonia moutan Sims, Paeonia arborea Donn.Đó là cây thân gỗ sống lâu năm.Có thể cao 1 - 2m, rễ phát triển thành củ. Lá mọc cách, thường chia thành 3 lá chét, lá chét giữa lại chia thành 3 thùy, mặt trên màu lục, mặt dưới có lông, màu trắng nhạt. Hoa mọc đơn độc ở đầu cành rất to. Tràng 5 - 6 hay nhiều hơn tùy theo kỹ thuật trồng hay giống chọn lựa, màu đỏ tím hoặc trắng.
Cây có nguồn gốc Trung Quốc, có ở cả Nhật Bản, Hàn Quốc, hiện nay đã di thực vào Việt Nam, ở những nơi có khí hậu cao mát các tỉnh phía Bắc miền núi như Lào Cai, Sapa. Mẫu đơn là cây thích nhiều ánh sáng, cây không sống được trong điều kiện râm mát. Cây ưa trồng trên đất sườn dốc, lớp đất dày, tiêu thoát nước tốt, hoặc đất cát pha nhiều màu, trồng trên đất nặng rễ cây nhỏ, chia ra nhiều nhánh, rễ lại hay bị thối; trồng trên đất cát đen rễ to nhưng vỏ lại mỏng. Mẫu đơn thích hợp trồng trên đất mới khai hoang, rất sợ liên canh vì cây dễ sinh ra nhiều sâu bệnh hại, sản lượng và chất lượng đều thấp.
Mẫu đơn sau khi trồng được 3 năm thì thu hoạch vào khoảng tháng 7 - 11. Thu hoạch mẫu đơn vào mùa thu năng suất cao hơn mùa hè từ 10 - 15% và có chất lượng tốt hơn.
Rễ mẫu đơn chứa alkaliod, saponin và một số chất thuộc nhóm anthocyanin có tên là peonin, paeonol, paenosid, paeoniflorin - paeonosid, khi thủy phân thu được paeonolid và arabinose.
Ngoài ra, còn có oxypaeniflorin, benzoylpaeoniflorin, d-catechin sacharose, sterol và một lượng tinh dầu từ 0,15 - 0,4% Trong vỏ rễ mẫu đơn, có các chất acetophenon như 2,5 dihydro - 4 methyl acetophenon và 1, 2, 3, 4, 6 penta galolglucose.
Phần dùng làm thuốc: vỏ rễ (Cortex Mutan). Vỏ sắc đen nâu, thịt trắng, nhiều bột.Vỏ dày, rộng, không dính lõi, mùi thơm là tốt.Vỏ rễ khô hình ống hoặc hình nửa ống.Một cạnh thường có vết nứt dọc, hai mép cuộn cong vào trong, dài ngắn không nhất định, dày khoảng 0,3cm.Mặt ngoài màu nâu tro hoặc nâu tía, có vân dọc, có vết sẹo ngang hình tròn dài, hơi lồi, có vết cắt của rễ tơ.Mặt trong màu nâu hoặc màu vàng tro nhạt, có vân sọc nhỏ, có nhiều chấm ánh bạc (tinh thể).Chất cứng giòn, dễ bẻ gãy, mặt gãy tương đối phẳng, có bột.Lớp ngoài màu nâu tro hoặc màu phấn hồng, lớp trong màu phấn trắng.Mùi thơm đặc biệt, vị hơi đắng, chát, hơi tê lưỡi.
Bài thuốc bổ thận, sinh tinh có dùng đơn bì
Đơn bì được dùng ở trong nhiều bài thuốc nổi tiếng.Ở đây, chúng tôi dùng đơn bì ở bài Thất vị bổ thận, sinh tinh. Cụ thể, bài thuốc gồm: thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, đơn bì 120g, trạch tả 120g, bạch linh 160g, nhục quế 40g. Bài này chính là bài Bát vị hoàn được bỏ vị phụ tử. Đây là tính toán của người bào chế, vì phụ tử có tính nóng, hơi độc không thích hợp với người bị cao huyết áp, người trẻ tuổi.Tuy nhiên, bài thuốc vẫn giữ lại vị nhục quế, thay vì bỏ đi như trong bài Lục vị hoàn. Bởi vì nhục quế có vị cay ngọt, tính nhiệt; quy vào các kinh thận, tỳ, tâm, can. Nhục quế có tác dụng bổ mệnh môn hỏa, tán hàn, ôn tỳ, chỉ thống, làm ấm khí huyết.
Tuy nhiên, để tăng tác dụng của bài thuốc, gia các vị: nhục thung dung, thục địa, câu kỷ tử, đỗ trọng, lộc giác giao, liên nhục…
Trong đó: thục địa, nhục thung dung, kỷ tử: bổ thận sinh tinh; lộc nhung, lộc giác giao: bổ tinh huyết; nhân sâm, đảng sâm, bắc kỳ, đan sâm: bổ khí, tăng cường sức khỏe; đương quy, xuyên khung: dưỡng huyết; sinh địa, táo nhân: dưỡng huyết, an thần. Các vị thuốc khác có tác dụng hỗ trợ bổ thận cường dương, sinh tinh huyết. Bài thuốc này dùng để ngâm rượu uống.
Bài thuốc Thất vị bổ tinh giúp bổ thận, bồi dưỡng ngũ tạng, sinh tinh, làm cho tinh khí mạnh mẽ, rất dễ thụ thai. Quan niệm Đông y: 'Tinh sinh khí, khí sinh thần', người uống bài thuốc này thường xuyên thì tinh huyết dồi dào, da mặt hồng hào, sức khỏe dẻo dai, cơ xương rắn chắc.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!