Hiện nay, chưa có bất kỳ một loại thuốc nào đặc trị hay tiêu diệt vi-rút nói chung và vi-rút cúm nói riêng. Các thuốc hiện có mới chỉ dừng lại ở mức độ kháng vi-rút theo cơ chế gây trở ngại cho sự gắn của vi-rút vào màng tế bào vật chủ và đi vào trong tế bào vật chủ, ức chế sự sao chép hoặc giải mã các ARN hoặc ảnh hưởng đến chu trình phát triển hoặc nhân lên của vi-rút.
Riêng thuốc chữa cúm hiện có các thuốc sau:
- Amantadine:Thuốc tác dụng ở giai đoạn ức chế sự hòa nhập vi-rút vào bên trong tế bào ký chủ. Thuốc có thể gây một số tác dụng phụ như bồn chồn lo lắng, chóng mặt, mất ngủ...
- Rimantadine:Cùng có cơ chế tác dụng như amantadine nhưng ưu việt hơn do khả năng xâm nhập vào dịch đường hô hấp hiệu quả hơn amantadine đồng thời lại ít tác dụng phụ đặc biệt là tác dụng trên hệ thần kinh trung ương hơn so với amantade. Ngoài ra, những tác dụng bất lợi của rimantadine có thể dễ chấp nhận hơn cho người già.
Ảnh minh họa
Cả hai loại thuốc này thường được chỉ định để điều trị cúm A và có hiệu quả làm giảm khoảng 50% thời gian bị bệnh, giảm các triệu chứng bệnh một cách hiệu quả hơn khi dùng các thuốc hạ sốt, giảm đau thông thường. Tuy nhiên, thuốc không có tác dụng trên vi-rút cúm B và không có tác dụng trên cúm có biến chứng và thực tế điều trị cũng đã xác nhận khả năng kháng thuốc của vi-rút cúm.
- Ribavirin:Thuốc có tác dụng ở giai đoạn 2, tức là ngăn cản vi-rút cúm tổng hợp RNA của nó, từ đó ức chế sự sao chép của nó bên trong tế bào. Ngoài thuốc viên, ribavirin còn được dùng ở dạng khí dung (bơm xịt vào đường hô hấp).
- Oseltamivir (biệt dược là Tamiflu):Thuốc có tác dụng ở giai đoạn cuối, tức là ngăn không cho vi-rút cúm sao chép trưởng thành và phóng thích ra khỏi tế bào bằng cách ức chế men neuraminidase (chính là kháng nguyên N của lớp vỏ vi-rút cúm). Oseltamivir có tác dụng kìm hãm được cả vi-rút cúm A và cúm B. Trên lâm sàng, oseltamivir rút ngắn thời gian bị bệnh ở người lớn trên 1 ngày, ở trẻ em là gần 1 ngày và liều lượng kháng sinh phải dùng giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên, vì thuốc chỉ hạn chế sự phát triển của vi-rút nên không có tác dụng trên các thương tổn đã xảy ra và chỉ có tác dụng trong vòng 2 ngày đầu sau khi có triệu chứng đầu tiên mà không có tác dụng khi vi-rút đã gây thương tổn. Nếu sử dụng muộn, không những không có tác dụng điều trị mà còn tạo điều kiện thuận lợi để vi-rút kháng thuốc.
- Ngoài các thuốc kể trên, một số chế phẩm sinh học như gamma globulin và interferon cũng có tác dụng kháng vi-rút. Gamma globulin ngăn vi-rút xâm nhập vào tế bào vì có chứa kháng thể chống lại kháng nguyên bề mặt nằm trên lớp vỏ của vi-rút. Còn interferon kháng vi-rút bằng cách ngăn cản vi-rút tổng hợp protein, RNA hoặc DNA của nó trong tế bào.
Một khó khăn cho việc tìm kiếm thuốc chữa cúm là trong khi chưa có thuốc đặc trị thì vi-rút cúm lại luôn thay đổi để kháng thuốc. Sự biến đổi này đặc biệt phức tạp ở vi-rút cúm A nhất là khi có những biến đổi gen, có sự trộn lẫn gen của nhiều chủng mà vi-rút cúm lợn H1N1 hiện nay là một ví dụ. Sự biến đổi khôn lường đó cho ra đời những vi-rút có đặc tính mạnh về khả năng lây lan, gây thương tổn và khó trị.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!