Bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt là tình trạng tăng sản lành tính tuyến tiền liệt, xảy ra ở hầu hết nam giới khi có tuổi và thường có phối hợp với các triệu chứng đường tiểu dưới làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống do tác động tới hoạt động tiểu tiện thường ngày và gây rối loạn giấc ngủ.
Chẩn đoán bệnh lý
Việc thăm khám bệnh nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt với mục đích là đánh giá sự xuất hiện của các triệu chứng đường tiểu dưới nhằm khẳng định đó là biểu hiện của bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt và để việc điều trị không chỉ dựa vào giải quyết triệu chứng mà còn làm giảm quá trình tiến triển của bệnh và phòng ngừa các biến chứng có thể xảy ra.
Thăm khám ban đầu cần thực hiện với các nội dung bao gồm: hỏi về tiền sử y khoa để xác định các nguyên nhân gây nên rối loạn tiểu tiện khác và các bệnh phối hợp khác có thể gây ra biến chứng điều trị. Khám thực thể với việc thăm khám trực tràng và khám phản xạ thần kinh. Phân tích nước tiểu bằng que thử hoặc xét nghiệm vi thể cặn nước tiểu để sàng lọc trường hợp đi tiểu ra máu, có đường niệu và viêm nhiễm đường tiết niệu.
Xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt PSA (prostate-specific antigen). Nên tiến hành làm biểu đồ nước tiểu khi có biểu hiện đi tiểu đêm là triệu chứng nổi trội. Xét nghiệm tế bào niệu là một lựa chọn ở nam giới có triệu chứng kích thích nổi trội, đặc biệt có tiền sử hút thuốc lá hoặc các yếu tố nguy cơ khác để giúp chẩn đoán ung thư bàng quang. Không khuyến cáo làm xét nghiệm Creatinin máu thường quy.
Đánh giá và định lượng các triệu chứng rất quan trọng để xác định mức độ nặng của bệnh, dữ liệu hoá đáp ứng điều trị và phát hiện sự tiến triển bệnh ở những nam giới được chỉ định chờ đợi theo dõi. Nên sử dụng bảng chỉ số quốc tế về các triệu chứng tuyến tiền liệt IPSS (international prostate symptom score) để đánh giá. Các công cụ đánh giá khác bao gồm bảng chỉ số ảnh hưởng của phì đại lành tính tuyến tiền liệt BPH (benign prostatic hyperplasia impact index).
Ngoài ra, các xét nghiệm chẩn đoán khác cũng cần được thực hiện bổ sung như niệu động học, nội soi niệu quản-bàng quang và siêu âm qua ổ bụng hoặc qua trực tràng mặc dù không được khuyến cáo thực hiện ngay từ đầu để đánh giá các triệu chứng đường tiểu dưới nhưng đây là phương thức lựa chọn trong những trường hợp dự định sử dụng biện pháp điều trị can thiệp xâm nhập. Việc ghi chép biểu đồ dòng tiểu và đo thể tích nước tiểu tồn lưu không cần thiết trong trường hợp dự định chờ đợi theo dõi hoặc điều trị nội khoa.
Tuy nhiên, chúng cũng có thể giúp ích ở những bệnh nhân có tiền sử y khoa phức tạp, những người có các triệu chứng đường tiểu dưới không thay đổi sau điều trị căn bản và ở những người có nguyện vọng điều trị xâm nhập. Chụp bàng quang và chẩn đoán hình ảnh đường tiết niệu trên bằng siêu âm và chụp niệu đồ tĩnh mạch không được khuyến cáo ở những bệnh nhân điển hình trừ khi người bệnh có đi tiểu ra máu, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, suy thận hoặc có tiền sử sỏi tiết niệu hay phẫu thuật đường tiết niệu.
Điều trị can thiệp
Bệnh nhân mắc bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt được chỉ định theo dõi ở những bệnh nhân có triệu chứng nhẹ hoặc không ảnh hưởng đến sinh hoạt cuộc sống trước khi có chỉ định xử trí can thiệp điều trị bằng nội khoa, xâm nhập tối thiểu và phẫu thuật.
Điều trị nội khoa:sử dụng thuốc chẹn alpha như Alfuzosin, Doxazosin, Tamsulosin và Terazosin là lựa chọn điều trị phù hợp cho những bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới do phì đại lành tính tuyến tiền liệt và có hiệu quả điều trị lâm sàng tương đương nhau; các thuốc này nên được chỉ định lựa chọn điều trị đầu tiên nếu các triệu chứng tắc nghẽn đường tiểu nổi trội. Các bác sĩ và bệnh nhân cần phải lưu ý tới một tình trạng phẫu thuật gọi là hội chứng mống mắt mềm trong mổ IFIS (intraoperative floppy iris syndrome). Có thể sử dụng thuốc chẹn alpha cùng với việc đặt ống thông niệu đạo để cải thiện hiệu quả sau khi rút ống thông niệu đạo ở những bệnh nhân bí tiểu tiện.
Các thuốc ức chế men 5-alpha reductase như Finasteride và Dutasteride là thuốc lựa chọn điều trị phù hợp và hiệu quả cho những bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới phối hợp với tuyến tiền liệt to lên có thể chứng minh được. Thuốc chỉ định điều trị cho những bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt có triệu chứng nhưng không làm người bệnh khó chịu và để đề phòng sự tiến triển của bệnh. Thuốc không phù hợp cho nam giới có triệu chứng đường tiểu dưới nhưng không có bằng chứng là tuyến tiền liệt phình to ra.
Thuốc kháng Cholinergic điều trị phù hợp và hiệu quả ở nam giới có các triệu chứng kích thích nổi trội và lượng nước tiểu tồn lưu không lớn thường ít hơn 250ml. Việc đo lượng nước tiểu tồn lưu cần được thực hiện trước khi bắt đầu điều trị thuốc kháng Cholinergic. Cần lưu ý khi sử dụng thuốc kháng Cholinergic ở người bệnh có lượng nước tiểu tồn lưu khoảng 250 đến 300ml.
Thảo dược hiện nay có một số loại được sử dụng cho những bệnh nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt nhưng không có thực phẩm chức năng, thuốc có nguồn gốc thảo dược để điều trị và không quy ước nào được khuyến cáo dùng cho bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới do phì đại lành tính tuyến tiền liệt.
Điều trị xâm nhập tối thiểu:sử dụng phương pháp điều trị nhiệt vi sóng qua niệu đạo TUMT (transurethral microwave heat treatment) và lấy tổ chức tuyến qua kim chọc niệu đạo TUNA (transurethral needle ablation). TUNA là phương pháp lựa chọn điều trị hiệu quả trong việc giải quyết từng phần các triệu chứng của bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Còn TUMT là phương pháp điều trị hiệu quả trong việc giải quyết từng phần các triệu chứng đường tiểu dưới do phì đại lành tính tuyến tiền liệt và có thể cân nhắc sử dụng cho bệnh nhân có các triệu chứng mức độ trung bình hoặc nặng.
Siêu âm tuyến tiền liệt
Điều trị phẫu thuật: bệnh nhân có thể lựa chọn can thiệp điều trị phẫu thuật như là cách điều trị đầu tiên nếu các triệu chứng bệnh lý gây phiền phức đến sinh hoạt của họ.
Trường hợp bệnh nhân có biểu hiện các biến chứng của bệnh gây nên, phương pháp điều trị tốt nhất là nên thực hiện can thiệp bằng phẫu thuật như: Bí tiểu tiện không cải thiện, ít nhất sau 1 lần rút ống thông niệu đạo vẫn bí tiểu tiện; ở những bệnh nhân không thể phẫu thuật được, điều trị bằng cách đặt ống thông niệu đạo cách hồi hoặc đặt ống thông niệu đạo lưu lại là cách lựa chọn.
Suy thận do phì đại tuyến tiền liệt nhiễm khuẩn tiết niệu tái diễn, đi tiểu ra máu đại thể tái diễn hoặc sỏi bàng quang hay điều trị bằng các phương pháp khác không hiệu quả. Túi thừa bàng quang không phải là chỉ định tuyệt đối của phẫu thuật, trừ khi có phối hợp với nhiễm khuẩn tiết niệu tái diễn hoặc rối loạn chức năng bàng quang tiến triển.
Có thể lựa chọn phương pháp tiếp cận phẫu thuật như phẫu thuật mở hoặc nội soi với việc sử dụng nguồn năng lượng điện cực hay laser, đơn cực hay lưỡng cực là các quyết định về mặt kỹ thuật dựa trên kích thước tuyến tiền liệt, sự quen thuộc của phẫu thuật viên và bệnh phối hợp của bệnh nhân.
Lựa chọn tiếp cận nên dựa vào sự biểu hiện của từng cá nhân người bệnh, bao gồm giải phẫu, kinh nghiệm phẫu thuật viên và sự bàn luận về lợi ích-nguy cơ của các biến chứng. Các lựa chọn điều trị phẫu thuật được thực hiện gồm: cắt tuyến tiền liệt mở. Cắt tuyến tiền liệt nội soi qua niệu đạo. Cắt tuyến tiền liệt bằng laser. Xẻ dọc tuyến tiền liệt qua niệu đạo. Bốc hơi tuyến tiền liệt qua nội soi niệu đạo.
Lời khuyên của thầy thuốc
Như trên đã nêu, phì đại lành tính tuyến tiền liệt là tình trạng tăng sản lành tính tuyến tiền liệt được phát hiện ở hầu hết những người bệnh nam giới cao tuổi và thường có biểu hiện các triệu chứng của đường tiểu dưới làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống do tác động tới hoạt động tiểu tiện hàng ngày, gây rối loạn giấc ngủ. Vì vậy khi phát hiện dấu hiệu nghi ngờ, người bệnh cần đi khám sớm để giúp chẩn đoán xác định chắc chắn đồng thời có chỉ định chọn lựa phương pháp điều trị phù hợp tùy theo từng trường hợp.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!