Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số Việt Nam trong tương lai. Ảnh minh họa
Mất cân bằng giới tính khi sinh đang ở mức báo động
Trong nhân khẩu học, tỷ số giới tính khi sinh là số bé trai trên 100 bé gái. Trong đó, mức cân bằng tự nhiên là 102-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống. Tuy nhiên, những năm trở lại đây, tỷ số giới tính khi sinh đang có sự chênh lệch rõ rệt ở nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam. Đây được xem là một trong những thách thức lớn đối với công tác dân số hiện nay.
Tại Việt Nam, theo kết quả từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999, tỷ số giới tính khi sinh là 107 bé trai/100 bé gái; năm 2009 là 110,5/100 và đến nay tỷ số này dao động xung quanh ngưỡng 114,8 bé trai/100 bé gái (năm 2018). Theo kết quả báo cáo sơ bộ 6 tháng đầu năm 2019 của các tỉnh/thành phố trên cả nước, tỷ số giới tính khi sinh vẫn đang có xu hướng gia tăng. Trong đó, có những tỉnh, con số này đã ở mức đáng 'báo động' (Quảng Bình: 126,6 bé trai/100 bé gái; Thái Bình: 125,8/100; Tuyên Quang: 125,1/100; Lào Cai: 122,1/100).
Mới nhậm chức Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam nửa cuối năm 2019, bà Naomi Kitahara coi đây là một vấn đề 'bất thường' khi Việt Nam có nhiều bé trai hơn bé gái, vượt ra ngoài phạm vi được coi là tự nhiên về mặt sinh học và nhân khẩu học.
Hiện tại, mất cân bằng giới tính khi sinh có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng. Cả nước có tới 55/63 tỉnh, thành có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108 bé trai/100 bé gái. Đáng chú ý, theo các nhà nhân khẩu học, tỷ số này đã cao ở ngay lần sinh con đầu tiên và đến lần sinh thứ ba thì đã lên đến 115,5-120 bé trai/100 bé gái (căn cứ theo số liệu năm 2014).
Hơn nữa, trong 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước thì có tới 4 vùng có tỷ số giới tính khi sinh ở thành thị cao hơn ở nông thôn. Mặc dù ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, tỷ số này ở thấp hơn ở khu vực thành thị, nhưng lại rất khác nhau giữa các tỉnh. Cá biệt tại 3 tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng, tỷ số này đã đạt mức cao kỷ lục là 125 vào năm 2016.
Thách thức lớn nhất và khó giải quyết nhất của công tác dân số
Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số (Bộ Y tế) cho biết, nguyên nhân cốt lõi của vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là tâm lý ưa thích con trai hơn con gái. Hiện nay, tại nhiều địa phương vẫn đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên; con trai giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong xã hội; đứa con sinh ra phải mang họ của bố; người chồng thường là chủ hộ trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn… Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ khiến cho vị thế của người phụ nữ không được coi trọng trong xã hội.
Theo Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Ngọc Lan, chính bất bình đẳng giới là nguyên nhân làm gia tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam, ngược lại mất cân bằng giới tính sẽ làm sâu sắc thêm vấn đề bất bình đẳng giới. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của các cặp vợ chồng. Mong muốn có con trai hiện nay không chỉ dừng ở biểu hiện tâm lý mà đã thể hiện thành hành động tìm kiếm con trai (tính ngày rụng trứng, siêu âm lựa chọn giới tính…).
Đề cập đến vấn đề lựa chọn giới tính thai nhi, bà Naomi Kitahara cho biết, tại nhiều diễn đàn quốc tế và gần đây nhất là cuộc gặp thượng đỉnh Nairobi năm 2019 về chủ đề 25 năm thực hiện các cam kết của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD25) mà Việt Nam là nước tham dự, lựa chọn giới tính thai nhi được coi là một trong những thực hành có hại.
Thực tế, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ ràng vấn nạn này và đã xây dựng các cơ chế chính sách và pháp lý khác nhau để ứng phó. Luật Bình đẳng giới quy định việc lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác làm như vậy là vi phạm pháp luật. Pháp lệnh Dân số năm 2003 và Nghị định số 104/2003/NĐ-CP đã nghiêm cấm hành vi lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức. Nghị định số 176/2013/NĐ-CP thậm chí còn đưa ra các quy định chi tiết về các hình phạt cho việc lựa chọn giới tính khi sinh. Tuy nhiên, trên thực tế, việc kiểm soát vấn đề lựa chọn giới tính thai nhi vẫn chưa đem lại nhiều kết quả khả quan.
Theo ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình, Ủy viên Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, hiện nay mất cân bằng giới tính khi sinh được coi là thách thức lớn nhất của công tác dân số. Càng ở đô thị, việc khắc phục càng khó khăn vì tâm lý của người dân luôn luôn muốn có con trai để 'nối dõi tông đường' hay làm 'trụ cột' trong gia đình. Điều này khiến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nặng nề và khó giải quyết.
Phải giải quyết từ 'gốc rễ' của vấn đề
Theo các nhà nhân khẩu học, mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số Việt Nam trong tương lai, dẫn tới việc dư thừa nam giới trong xã hội. Nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu từ 2,3 đến 4,3 triệu phụ nữ.
Bên cạnh đó, mất cân bằng giới tính có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và ảnh hưởng tới cuộc sống của phụ nữ, nam giới, gia đình và cộng đồng; làm tăng tệ nạn mại dâm, HIV/AIDS, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trẻ em gái, bất bình đẳng, ly hôn; bất ổn xã hội...
Các chuyên gia nhận định, để giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta hiện nay, phải giải quyết 'gốc rễ' của vấn đề, tức là thay đổi nhận thức của người dân về việc sinh con trai hay con gái. Theo đó, phải tăng cường công tác bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ, trẻ em gái, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động thay đổi nhận thức của con người, phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong xã hội, vận động nam giới tham gia bình đẳng giới, từ đó dần xóa bỏ việc lựa chọn giới tính thai nhi, góp phần đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên.
Đây cũng là mục tiêu được đưa ra trong Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Công tác dân số trong tình hình mới cũng như Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Theo đó, cần đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý. Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống;
Để góp phần giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, thời gian qua, ngành Dân số đã quyết liệt triển khai các giải pháp trên khắp cả nước như: Truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về bất bình đẳng giới, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh; tăng cường phối hợp liên ngành trong công tác thanh, kiểm tra vấn đề lựa chọn giới tính thai nhi.
Tuy nhiên, để xóa bỏ tâm lý, tập quán muốn có con trai 'nối dõi tông đường', kiểm soát việc lạm dụng kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ lựa chọn giới tính thai nhi không phải là điều đơn giản, có thể thực hiện trong 'một sớm, một chiều' mà đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng, các Ban ngành, đoàn thể và sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn xã hội.
Cần đưa việc lựa chọn giới tính thai nhi vào Luật Dân số
PGS.TS Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho biết, hiện nay việc sàng lọc giới tính thai nhi đang là vấn đề khó khăn, chưa có cơ chế, cách thức nào để quản lý, tất cả vẫn dừng ở hình thức. Do đó, với những trường hợp lạm dụng sàng lọc để sàng lọc giới tính, sàng lọc về phôi thì cần đưa ra giải pháp quyết liệt. Đó là phải đưa vào Luật Dân số để khống chế việc mất cân bằng giới tính khi sinh.
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!