Vì vậy, khi môi trường xung quanh chúng ta không đảm bảo vệ sinh, đặc biệt là trong và sau lũ lụt thì khả năng mắc bệnh viêm gan E của người dân sống trong các vùng đó rất dễ dàng xảy ra.
Đặc điểm của bệnh viêm gan E
Bệnh viêm gan E có thể gặp ở bất cứ nước nào trên thế giới, nhưng tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là các nước vùng nhiệt đới, đặc biệt là những nước vệ sinh môi trường kém, mưa, lũ thường hay xảy ra.
Sơ đồ hệ thống đường mật
Bệnh xuất hiện theo chu kỳ khoảng từ 5-10 năm, thường có một vụ dịch tại một địa phương nào đó. Khi bệnh xuất hiện, người ta thấy có liên quan mật thiết với mưa lũ đã hoặc đang xảy ra. Lý do là vi-rút viêm gan E có trong phân, rác, nước thải khi mưa lũ về làm tràn ngập các vùng đất bẩn có chứa các vi sinh vật gây bệnh, trong đó có vi-rút viêm gan A, E. Vi-rút viêm gan E được đưa đến nhiều vùng dọc theo triền sông.
Từ nước, vi-rút bám vào thức ăn như rau, thực phẩm (do dùng nước sông, ao hồ để rửa), nước uống. Khi con người ăn, uống phải loại thức ăn, nước uống đó sẽ mắc bệnh. Tuy vậy, mắc bệnh viêm gan vi-rút E chỉ chiếm một tỷ lệ dưới 10%, nhưng điều đáng nói ở đây là bệnh dễ dàng trở thành ác tính, có tỷ lệ tử vong khoảng 0,5 - 4%.
Vi-rút viêm gan E có nhược điểm là sức đề kháng rất kém khi ra bên ngoài môi trường, chỉ cần đun sôi trong vòng từ 1 - 2 phút là có khả năng tiêu diệt được chúng. Đây là một đặc điểm rất thuận lợi cho công tác phòng bệnh.
Vi-rút viêm gan E rất hiếm khi lây qua đường máu và càng ít lây qua đường tình dục.
Biểu hiện của bệnh như thế nào?
Thời gian ủ bệnh khá dài, từ vài tuần đến vài tháng sau khi vi-rút xâm nhập vào cơ thể. Thời kỳ khởi phát: Bệnh nhân sốt nhẹ, mệt mỏi, chán ăn, đau mỏi toàn thân làm cho nhầm tưởng là cảm cúm. Thời kỳ toàn phát là vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu, phân bạc màu hoặc trắng như phân cò, sau đó xuất hiện rối loạn tiêu hoá như đau bụng lâm râm, buồn nôn, nôn, chán ăn, có thể bị tiêu chảy.
Trong giai đoạn khởi đầu và toàn phát, men gan thường tăng cao, sắc tố mật trong máu cũng tăng cao, đặc biệt là thời kỳ có vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm, phân bạc màu. Siêu âm gan sẽ phát hiện được những thay đổi về gan (như kích thước to, đường mật trong gan giãn…).
Cấu trúc vi-rút viêm gan E
Chữa trị bệnh viêm gan E như thế nào?
Cũng giống như bệnh viêm gan vi-rút A, B, C, D, tỷ lệ bệnh nhân viêm gan E tự khỏi, không cần chữa trị bất kỳ bởi một loại thuốc nào là khoảng 90%. Những trường hợp không tự khỏi (do xét nghiệm siêu âm và sinh thiết gan… mà biết), cần nghỉ ngơi tuyệt đối, không được uống rượu, bia. Cho đến nay, vẫn chưa có loại thuốc nào để điều trị tiêu diệt mầm bệnh viêm gan, trong đó có bệnh viêm gan E.
Về Tây y, đã có một số thuốc nhằm ức chế sự phát triển vi-rút viêm gan và kích thích cơ thể sinh kháng thể để chống lại vi-rút. Tuy vậy, trước khi dùng các loại thuốc này, người bệnh nhất thiết phải được khám bệnh và chẩn đoán của thầy thuốc để có chỉ định dùng thuốc đúng.
Phòng bệnh viêm gan E vi-rút như thế nào?
Bệnh viêm gan vi-rút E liên quan mật thiết với vệ sinh môi trường, đặc biệt là sau lũ lụt. Do vậy, phòng bệnh viêm gan E cũng bao hàm cả phòng bệnh viêm gan A, chỉ khác là đối với bệnh viêm gan E hiện nay chưa có vắc-xin dự phòng. Do vậy, cần vệ sinh hoàn cảnh, vệ sinh môi trường thật tốt, đặc biệt là trước, trong và sau mưa lũ. Cần có biện pháp quản lý phân và chất thải sau mưa lũ, đặc biệt là các huyện miền núi, các vùng triền sông hay có lũ, lụt.
Song song với quản lý phân và chất thải thì xử lý nguồn nước cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Nguồn nước là ổ chứa vi sinh vật gây bệnh, trong đó có vi-rút viêm gan A và E. Vì vậy, sau lũ lụt cũng như định kỳ cần thau rửa giếng khơi. Các nguồn nước ứ đọng như ao, hồ, cống rãnh cần được khơi thông.
Cần có biện pháp khử khuẩn bằng cloramin đúng phương pháp (dưới sự hướng dẫn của cán bộ y tế). Không nên rửa rau, thực phẩm ở các sông, suối, ao, hồ không hợp vệ sinh. Tuyệt đối không ăn rau sống, không uống nước chưa đun sôi, kể cả nước đá mà nguồn nước dùng chưa tiệt khuẩn
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!