Mỗi hệ thống phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau, phục vụ mục đích khác nhau. Một vài tiêu chí trong số đó là:
Phân loại dựa vào bệnh học
Theo tiêu chí này, ung thư được phân loại theo cấu trúc tế bào và vi giải phẫu của chúng. Đây là cách phân loại phổ biến nhất của ung thư vú.
Các tế bào ung thư lan ra ngoài ống dẫn sữa, xâm lấn mô lân cận bên trong vú.
Phân loại theo mức độ
Các nhà bệnh học thường phân loại ung thư theo mức độ. Ví dụ như ung thư “biệt hóa tốt” là mức độ thấp và tương tự như mô bình thường.
Khối u ‘biệt hóa kém’ là những tế bào sắp xếp lộn xộn và không giống như mô bình thường, được xếp là mức độ cao. Một số là 'biệt hóa vừa’ hoặc mức độ trung bình.
Phân loại dựa vào giai đoạn ung thư
Đây là phương pháp thường được sử dụng nhiều nhất để xác định giai đoạn ung thư và phân giai đoạn TNM được dùng để tính kích thước khối u, hạch bạch huyết có liên quan hoặc sự di căn của ung thư.
Tình trạng protein và gen
Tất cả các trường hợp ung thư vú hiện nay đều được xem xét về biểu hiện, hoặc những tác động có thể phát hiện được, của thụ thể estrogen (ER), thụ thể progesterone (PR) và protein HER2/neu.
Những xét nghiệm này sử dụng các nguyên lý của hóa mô miễn dịch học và khi tình trạng những protein đó được xác định, có thể dự báo tiên lượng bệnh và lựa chọn một số phương pháp mới để điều trị.
Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (Ảnh: news-medical)
Biểu hiện mô học
Tuy cách phân loại này được áp dụng phổ biến nhưng không phải lúc nào ung thư vú cũng được phân loại theo biểu hiện mô học của chúng. Một số loại mô học bao gồm:
Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS)
Đây là một dạng rất sớm của ung thư không lan rộng. Ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ là loại ung thư vú giai đoạn đầu phát triển bên trong hệ thống ống dẫn sữa mà không tấn công mô lân cận. Đây là một trong những loại phổ biến của ung thư không xâm lấn.
Ung thư biểu mô ống dẫn sữa xâm lấn (IDC)
Đây là loại phổ biến nhất của ung thư vú. Chúng bắt đầu từ trong ống dẫn sữa và lan đến các mô xung quanh. Bệnh cũng có thể di căn đến các bộ phận khác của cơ thể qua hệ bạch huyết và mạch máu.
Ung thư biểu mô thể tủy
Loại ung thư này chiếm khoảng 15% tổng số trường hợp ung thư vú. Bệnh thường ảnh hưởng đến phụ nữ tuổi trung niên và các mô tế bào giống như tủy (chất xám) của não bộ.
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ (LCIS)
Đây là một dạng hiếm của ung thư không xâm lấn. Bệnh thường không phát triển thành ung thư xâm lấn. Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ thường là 'chỉ báo' hoặc dấu hiệu cho thấy ung thư vú có thể phát triển. Hiện tại ung thư biểu mô tiểu thùy được đổi tên là khối u tiểu thùy.
Ung thư biểu mô tiểu thùy xâm lấn (ILC)
Đây là loại phổ biến thứ hai chỉ sau ung thư ống dẫn sữa xâm lấn. Ung thư bắt đầu trong các tiểu thùy hoặc thùy và di căn đến các bộ phận khác của cơ thể. Phần bên trên ngoài của bầu vú có thể có biểu hiện dày lên.
Ung thư biểu mô tiểu thùy xâm lấn thường dương tính với thụ thể estrogen và progesterone, do đó có thể điều trị thành công bằng liệu pháp hoóc-môn.
Hình ảnh ung thư tuyến vú (Ảnh: Internet)
Ung thư biểu mô hình ống
Các tế bào ung thư biểu hiện như các ống nhỏ. Đây là loại ung thư vú thường gặp ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên. Khối u dạng này đáp ứng tốt với điều trị.
Ung thư biểu mô dạng nhày
Đây là loại hiếm của ung thư vú xâm lấn - hiếm khi di căn đến các hạch bạch huyết. Các tế bào ung thư sản sinh chất nhờn và khác biệt với các tế bào bình thường khi soi dưới kính hiển vi. Chất nhầy và tế bào ung thư kết hợp với nhau tạo thành khối u giống như thạch.
Bệnh Paget
Loại bệnh này dẫn tới sự thay đổi màu da núm vú giống như bệnh eczema. Chúng gây ngứa, đóng vảy và rỉ dịch từ núm vú. 90% số phụ nữ có các triệu chứng này đã tiểm ẩn ung thư vú. Bệnh Paget có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng dễ gặp hơn ở phụ nữ độ tuổi 50.
Ung thư vú dạng viêm
Ung thư vú dạng viêm là hiếm gặp nhưng là loại ung thư vú xâm lấn. Bệnh dẫn đến tắc mạch bạch huyết ở vùng da vú. Loại ung thư này xuất hiện trên diện rộng như một mảng hơn là như một khối u. Vú sẽ có biểu hiện sưng, đỏ và viêm.
Ung thư vú bộ ba âm tính
Khối u vú loại này âm tính với thụ thể estrogen (ER), thụ thể progesterone (PR) và protein HER2/neu.
Ung thư vú di căn
Đây là giai đoạn muộn của ung thư vú khi bệnh đã di căn đến các cơ quan khác như gan, não, xương...
>> Xem thêm: Hỏi - đáp về bệnh ung thư vú
Hồng Quân (News-medical)
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!