Loãng xương có thể dẫn đến tàn phế

Kỹ năng sống - 11/24/2024

Ở độ tuổi nào cũng có thể bị loãng xương. Loãng xương khiến nhiều hoạt động trong cuộc sống bị ảnh hưởng.

Bệnh loãng xương ngày càng có xu hướng gia tăng, bệnh có thể để lại biến chứng nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời. Tuy vậy, loãng xương có thể phòng ngừa được.

Bệnh loãng xương gặp ở nữ nhiều hơn nam, trong đó phụ nữ tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Loãng xương để lại nhiều hậu quả xấu, vì vậy, cần biết để phòng bệnh.

Nguyên nhân gây loãng xương

Loãng xương có thể dẫn đến tàn phế

Biến chứng gãy cổ xương đùi do loãng xương

Loãng xương là sự rối loạn nội tiết làm cho cấu trúc xương bị tổn hại, lực của xương bị suy giảm và dẫn đến xương dễ bị gãy, nứt, rạn. Loãng xương hay gọi là xốp xương tức là tỷ trọng khoáng chất của bộ xương ở trong cơ thể bị suy giảm một cách đáng kể, trong đó hormon sinh dục (estrogen, androgen), các chất protein, vitamin D và canxi đóng vai trò quan trọng. Khi chế độ dinh dưỡng hàng ngày không cung cấp đầy đủ chất canxi hoặc vì một lý do nào đó cơ thể không hấp thu được canxi (ăn kiêng kéo dài, chế độ ăn nghèo nàn, kém chất lượng) thì sẽ gây loãng xương.

Loãng xương cũng có thể do mắc một số bệnh về tuyến thượng thận, cường giáp trạng, suy thận, bệnh yếu liệt chi, chấn thương hoặc bệnh mạn tính phải nằm dài ngày hoặc do lạm dụng thuốc corticoid trong một thời gian dài. Đặc biệt ở phụ nữ đến thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh, lượng hormon oestrogen trong máu bị suy giảm một cách đáng kể bởi sự suy thoái của buồng trứng. Sự suy giảm oestrogen sẽ làm tăng hoạt tính của tế bào tủy xương, từ đó khối lượng xương sẽ mất dần theo năm tháng kể từ khi tiền mãn kinh (mỗi năm mất khoảng từ 2-4%).

Ngoài yếu tố về chế độ dinh dưỡng và nội tiết tố còn có nhiều yếu tố thuận lợi khác (gọi là yếu tố nguy cơ) làm cho bệnh loãng xương tăng nếu như một người nào đó có tiền sử bị còi xương lúc còn nhỏ, hàng ngày ít vận động, béo phì.

Những hệ quả xấu do loãng xương

Giảm mật độ xương và loãng xương là một bệnh mạn tính kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, âm thầm, không gây đau đớn nên người bệnh không để ý đến. Hầu hết các trường hợp trong các giai đoạn đầu không có triệu chứng gì đặc biệt ngoài một số dấu hiệu mệt mỏi, ăn uống kém, nhức xương không thường xuyên. Càng về sau, sự thiếu hụt canxi càng gia tăng làm cho xương xuống cấp nghiêm trọng (loãng, xốp xương) thì các triệu chứng đau nhức xương rõ rệt hơn.

Đó là đau lưng, đau các khớp chân, tay và mỏi bại hông, đặc biệt là các khớp xương chịu lực mạnh (xương sống, khớp gối, khớp cổ chân, cổ tay, ngón tay, bàn tay). Với các xương dài như xương đùi, xương cẳng chân, xương cánh tay, cẳng tay, đốt sống thắt lưng sẽ dễ dàng bị gãy xương do bị ngã, vấp, chấn thương, tai nạn.

Đau nhức xương và các khớp xương thường rõ nhất vào ban đêm. Ngoài đau nhức xương, mệt mỏi thì một số triệu chứng khác như chuột rút cũng thường xuất hiện ở những người loãng xương. Khi bị bệnh loãng xương không được phát hiện hoặc phát hiện rồi nhưng điều trị không đúng phác đồ thì hậu quả xấu nhất là rạn xương, nứt vỡ hoặc gãy xương. Trên thế giới, cứ 30 giây thì có một người bị bệnh gãy xương do loãng xương và được dự đoán rằng đến năm 2050 các nước châu Á, trong đó có nước ta sẽ có 50% các trường hợp tàn phế hoặc bị đe dọa đến tính mạng do gãy khớp háng vì loãng xương gây ra.

Khi bị loãng xương, nếu có một lực tác động mạnh (ngã, gập chân, trượt chân...) thì sẽ xuất hiện gãy, lún cột sống, gãy cổ xương đùi, xương cẳng chân, xương cẳng tay. Loại xương nào cũng có thể bị loãng nhưng những loại thường bị chịu lực tác động nhiều nhất sẽ để lại hậu quả xấu hơn cả. Vì vậy, gãy cổ xương đùi, gãy cổ tay, gãy khớp háng chiếm tỷ lệ cao nhất trong bệnh lý loãng xương.

Loãng xương có thể dẫn đến tàn phế

Có phòng ngừa được không?

Những người tuổi đã cao, đặc biệt là phụ nữ nên đi khám bệnh về xương khớp ở các cơ sở y tế có đủ điều kiện để được làm các xét nghiệm về cận lâm sàng đánh giá mật độ của xương và tình trạng của xương. Việc phát hiện sớm và điều trị ngay từ đầu là việc làm rất có ý nghĩa để phòng bệnh loãng xương và ngăn ngừa gãy xương. Ngoài ra, những người đã đến tuổi trưởng thành kém phát triển chiều cao, cân nặng dưới 40kg hoặc giảm trọng lượng nhanh, cơ bắp yếu, thiếu hoóc-môn sinh dục (nữ giới là estrogen và nam giới là androgen), người nghiện rượu, sử dụng corticoid kéo dài, nghiện thuốc lá... cũng nên kiểm tra mật độ của xương.

Khi đã được chẩn đoán bị bệnh loãng xương, việc điều trị đòi hỏi phải kiên trì không phải ngày một, ngày hai. Uống thuốc gì, liều lượng bao nhiêu và trong thời gian nào là do thầy thuốc khám bệnh và có chỉ định cụ thể. Bị bệnh loãng xương phải hết sức cẩn thận khi làm các động tác mạnh, đi lại cũng phải hết sức thận trọng tránh ngã, vấp, khuỵu, gập chân, tay nhất là lên cầu thang vì rất dễ gây gãy xương, đặc biệt là xương đùi.

Muốn phòng bệnh loãng xương, tốt nhất là ăn uống đủ chất, đặc biệt là các loại thức ăn giàu canxi, protein, vitamin D như: tôm, cua, ốc, uống sữa và các chế phẩm của sữa có chứa nhiều thành phần canxi, sinh tố D. Nên ăn thêm trái cây, rau, giá đỗ (chứa nhiều estrogen) vì chúng có khả năng làm thay đổi sự chuyển hóa của xương, giảm tốc độ mất xương và làm tăng khoáng chất cho xương. Cần tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn như đi bộ, tập hít thở, tập vận động các khớp xương. Những người đã bị loãng xương không nên làm các động tác mạnh, gấp gáp và tránh ngã, vấp.

Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!