Nói đến co lợi là nói đến quá trình bề mặt chân răng bị lộ do sự di chuyển về phía cuống răng của lợi. Tình trạng co lợi có thể xảy ra ở một răng, một nhóm răng hoặc toàn bộ hàm răng. Lợi co có thể bị viêm nhưng có thể bình thường.
Tình trạng co lợi có thể nhìn thấy được và không nhìn thấy được. Phần nhìn thấy được là khoảng bề mặt chân răng lộ ra do lợi bị co. Nhưng phần không nhìn thấy được là khoảng lợi dù tách ra khỏi răng nhưng vẫn che phủ phần nào. Do khoảng này chỉ được lợi che hờ nên vẫn có một khoảng răng bị hở tuy mắt không nhìn thấy được.
Phần co lợi nhìn thấy bằng mắt người bệnh có thể tự phát hiện nếu chú ý quan sát. Nhưng phần co lợi không nhìn thấy được chỉ được phát hiện ra khi người bệnh đi khám răng và chỉ đo được bằng cây thăm dò quanh răng tới vị trí bám dính của biểu mô.
Ví dụ, khi chân răng có túi viêm thì một phần nhìn thấy được, một phần co lợi bị che phủ bởi lợi. Vì thế, đánh giá mức độ co lợi sẽ bao gồm cả hai phần: co lợi nhìn thấy được và không nhìn thấy được.
Vì sao lợi bị co?
Co lợi có rất nhiều nguyên nhân, có thể do sinh lý, bệnh lý, sang chấn hoặc kết hợp các nguyên nhân khác nhau, sự khác biệt là ở mức độ.
Nguyên nhân bệnh lý: Viêm quanh răng, túi bệnh lý sâu là nguyên nhân thường gặp của co lợi.
Nguyên nhân sang chấn: Nguyên nhân co lợi có thể là do chải răng sai kỹ thuật làm sang chấn mòn lợi (lợi mỏng và thấp dần). Chải răng mạnh bằng bàn chải cứng cũng gây hại cho lợi. Ngoài ra, sang chấn khớp cắn là yếu tố thuận lợi làm trầm trọng thêm tình trạng co lợi do tăng sinh biểu mô và viêm tại chỗ.
Nguyên nhân sinh lý: Co lợi sinh lý tăng theo tuổi, tỷ lệ co từ 8% ở trẻ em tới 100% sau tuổi 50. Một nghiên cứu khác cho biết: co lợi ở lứa tuổi 16-19 là 10,4%; co lợi ở lứa tuổi 20-24 là 24,8%; co lợi ở lứa tuổi 35-44 là 46,8%.
Các yếu tố thuận lợi về sinh lý và giải phẫu: Mức độ mòn lợi bị ảnh hưởng bởi vị trí của răng trên cung hàm, góc của chân răng trong xương hàm, độ cong gần xa của bề mặt chân răng. Ở những răng xoay, nghiêng, sai vị trí lệch ra phía tiền đình thì tấm xương ổ răng mỏng, bị giảm chiều cao, áp lực khi nhai thức ăn cứng hoặc do chải răng sẽ làm mòn phần lợi không được xương nâng đỡ phía dưới, gây ra co lợi.
Mô quanh răng mỏng là yếu tố thuận lợi của co lợi.
Tình trạng teo mô quanh răng ở người già.
Phanh niêm mạc bám cao có thể là yếu tố làm trầm trọng thêm co lợi vì gây ra sự co kéo lợi tự do khi ăn nhai dẫn đến bong lợi, khiến thức ăn dễ rắt, vi khuẩn xâm nhập gây viêm.
Liên quan giữa co lợi và túi lợi: Sự hình thành túi lợi gây ra mất bám dính và lộ bề mặt chân răng. Sau khi điều trị viêm quanh răng, túi lợi sẽ giảm hoặc biến mất nhưng mức co lợi không thay đổi nếu vị trí bám của lợi trên chân răng không thay đổi.
Hậu quả của co lợi
Lợi co làm hở bề mặt chân răng nên dễ bị sâu chân răng.
Cement răng lộ ra sẽ bị mòn khi chải răng làm lộ ngà răng do đó răng tăng nhạy cảm khi bị kích thích.
Dễ bị viêm lợi.
Tạo điều kiện cho mảng bám, thức ăn và vi khuẩn tích tụ nhất là co lợi ở vùng kẽ răng.
Ảnh hưởng thẩm mỹ với nhóm răng phía trước.
Co lợi tiến triển nặng làm chân răng lung lay, răng ngả nghiêng, mất chức năng nhai và thẩm mỹ.
Co lợi điều trị thế nào?
Việc điều trị và hiệu quả điều trị phụ thuộc vào mức độ co lợi. Có thể chia ra làm 4 loại như sau:
Loại I: Khi co lợi chưa tới đường ranh giới lợi - niêm mạc miệng và mô quanh răng ở kẽ răng chưa bị tổn thương. Ở mức độ này có thể điều trị bằng phẫu thuật che phủ hoàn toàn chân răng bị lộ.
Loại II: Co lợi tới hoặc vượt qua đường nối lợi - niêm mạc miệng và mô quanh răng ở kẽ răng chưa bị tổn thương. Tiên lượng: có thể phẫu thuật che phủ hoàn toàn chân răng bị lộ.
Loại III: Co lợi vượt qua đường ranh giới lợi - niêm mạc miệng, kèm theo mô quanh răng ở kẽ răng bị phá hủy. Vì mô quanh răng ở kẽ răng bị phá hủy nên chỉ có thể phẫu thuật che phủ một phần chân răng bị lộ. Mức độ che phủ của phẫu thuật là đường nối điểm giữa bờ lợi của hai răng bên cạnh.
Loại IV: Là co lợi loại III cộng với răng bị lung lay, di chuyển do bệnh quanh răng. Phẫu thuật vạt lợi che phủ chân răng không thể thành công trong trường hợp này. Nếu răng còn chỉ định bảo tồn thì phẫu thuật làm tăng chiều cao lợi dính.
Làm sao để phòng ngừa co lợi?
Để phòng ngừa co lợi, chúng ta nên dùng bàn chải lông mềm để chải răng và phải chải răng đúng cách (chải dọc và xoay tròn theo phương pháp Stillman cải tiến). Có thể sử dụng thêm nước súc miệng kháng khuẩn, có bổ sung fluor để làm tăng tác dụng làm sạch và củng cố men răng.
Nên đi khám răng miệng định kỳ 6 tháng/1 lần để lấy sạch cao răng và kịp thời phát hiện các bệnh viêm lợi, viêm quanh răng. Đặc biệt những người có yếu tố nguy cơ co lợi như cấu trúc lợi mỏng, răng mọc lệch lạc hay phanh môi, má bám thấp... nên được các bác sĩ chuyên khoa tư vấn phòng ngừa.
TS. BS. Lê Long Nghĩa- BS. Lê Minh Sơn (Đại học Y Hà Nội)
Thấy hữu ích thì LIKE và SHARE ngay nhé!